
Chúa nhật XIV thường niên – Năm B

Dẫn vào thánh lễ
Anh chị em thân mến! Các bài đọc hôm nay giới thiệu cho chúng ta ba vị tiên tri cùng chung mọt số phận. Đó là Ezekiel, thánh Phao-lô và Chúa Giê-su. Ba vị đều bị xua đuổi, khước từ tại chính quê hương của mình, lý do đơn giản chỉ vì sứ điệp mà các vị rao giảng. Cả ba đều gặp sự chống đối quyết liệt của các thính giả ương ngạnh, kiêu căng trong chính dân tộc mình.
Thời ngôn sứ Ezekiel thì dân Israel tỏ ra là một dân phản nghịch, chống lại Thiên Chúa, mặc dù Thiên Chúa một mực yêu thương tha thứ cho họ. Thời Chúa Giê-su thì dân làng Narazeth đồng hương của Chúa Giê-su không tin Người, mặc dù họ thấy Người khôn ngoan lạ thường ở các làng chung quanh. Phải chăng vì lòng người cao ngạo hẹp hòi, mù quáng và thành kiến? Họ muốn Thiên Chúa phải lệ thuộc vào họ, phải làm những điều họ muốn và theo cách họ nghĩ.
Dân Chúa ngày hôm nay và bản thân mỗi người chúng ta phải làm thế nào để trở thành những người con hiếu thảo của Thiên Chúa? Trước hết chúng ta hãy thống hối ăn năn
Ca nhập lễ
Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa với tiếng reo vui.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Ed 2, 2-5
“Ðây là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri”.
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe Người nói với tôi rằng: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng: ‘Chúa là Thiên Chúa phán như vậy’. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có một tiên tri”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 122, 1-2a. 2bcd. 3-4
Ðáp: Mắt chúng con nhìn vào Chúa, cho tới khi Người thương xót chúng con (c. 2cd).
Xướng: Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông.
Xướng: Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi.
Xướng: Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ kiêu căng.
Bài Ðọc II: 2 Cr 12, 7-10
“Tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”. Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Ðức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! – Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 1-6
“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Sự cao ngạo sẽ không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên Chúa, trái lại còn làm cho con người xa Chúa và có thể giết chết sự sống. Vậy giờ đây chúng ta hãy khiêm tốn nguyện xin:
1. “Ta sai ngươi đến với…dân nổi loạn phản nghịch Ta…” – Xin Chúa trở nên nguồn vui và nguồn an ủi cho các vị chủ chăn, để giữa những chống đối, các ngài vẫn can đảm loan truyền lời chân lý đến cho mọi người.
2. Tôi vui thỏa trong sự …lăng nhục, bắt bớ, khốn khó vì Đức Ki-tô” – Xin trợ giúp các tín hữu, để khi họ bị hiểu lầm, thua thiệt, chống đối vì mang danh Ki-tô hữu, họ vẫn không nản chí thất vọng, nhưng luôn trung thành sống đức tin đã lãnh nhận.
3. “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc sao? Họ vấp phạm vì Người” – Xin cho các tội nhân đừng vì hàng rào thành kiến, nghi kỵ đối với các vị có trách nhiệm rao giảng Lời Chúa, mà ngụy biện cho cuộc sống tội lỗi của mình, nhưng biết thành tâm, đón nhận những lời kêu gọi sám hối trở về cùng Chúa
4. “Ở đó Người không làm phép lạ nào được” – Xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta được tâm hồn rộng mở trước ánh sáng thần linh, để Chúa có thể thực hiện được những điều kỳ diệu nơi chúng ta.
Chủ tế: Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin cho chúng con biết đặt hết niềm tin vào Chúa qua sự trung thành giữ các giới răn, để chúng con trở thành những người con hiếu thảo của Chúa Cha. Xin cho tình thân nghĩa Chúa dành cho không thành lời khiển trách như những người làng Narazeth, nhưng là niềm vinh dự và hạnh phúc cho chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, Chúa dùng các bí tích để ban phát ơn cứu độ; xin cho cộng đoàn chúng con biết cử hành lễ tế thờ phượng này với tinh thần phục vụ của Ðức Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Ca hiệp lễ
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi hãy chúc tụng thánh danh Người.
Hoặc đọc:
Chúa nguyện rằng: Lạy Cha, Con cầu xin cho chúng, để chúng nên một như Ta, hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chúng con vừa dâng lễ tạ ơn và đã được rước Mình và Máu Con Chúa là nguồn mạch sức sống dồi dào; xin cho chúng con hằng gắn bó cùng Chúa để sinh hoa quả tồn tại đến muôn đời. Chúng con cầu xin…
Suy niệm: “Người gieo niềm hy vọng”
Đọc Kinh Thánh Cựu ước, chúng ta thấy bất kể thời nào, Thiên Chúa cũng sai sứ giả của Ngài đến để hướng dẫn dân Do Thái. Dù dân này cứng cổ và phản nghịch, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi họ. Ngài vừa là một nhà giáo dục khôn ngoan, kiên nhẫn, mạnh mẽ lên án những sai lầm của dân, nhưng cũng là một người Cha bao dung tha thứ những tội lỗi dân đã phạm. Những sứ giả của Thiên Chúa cũng được gọi là tiên tri hay ngôn sứ, tức là những người được sai đi để chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa. Trong bối cảnh đau thương, thất bại, sa đoạ của dân Do Thái, họ là những người xây dựng hoà bình và gieo niềm hy vọng.
Êdêkien là một vị ngôn sứ sống ở cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông cùng chia sẻ thân phận lưu đày tại Babylon với dân tộc mình. Trong cảnh lưu đày xa quê, vào thời điểm không còn đền thờ, không còn nghi thức tế tự, cũng giống các ngôn sứ khác, ông có sứ mạng giúp dân duy trì niềm tin, tránh xa việc thờ ngẫu tượng cũng như những ảnh hưởng ngoại lai. Bài đọc hôm nay kể lại việc Chúa trao sứ vụ cho ngôn sứ Edêkien. Chúa cho ông biết trước, đây là một nhiệm vụ khó khăn và sẽ gặp nhiều chống đối. Lời trấn an «đừng sợ» được lặp đi lặp lại, cho thấy Thiên Chúa luôn ở bên và đồng hành với những sứ giả của Ngài. Chúa cũng hứa trước, Ngài sẽ ban cho vị ngôn sứ sức mạnh can trường, để có thể đương đầu với những nghịch cảnh. Như chúng ta đọc thấy trong sách ngôn sứ mang tên ông, vị ngôn sứ đã nhiệt thành chuyên cần và can đảm để rao giảng Lời Chúa, củng cố đức tin, loan báo niềm hy vọng cho dân chúng. Ông cũng được gọi là ngôn sứ của niềm hy vọng. Ông chuyển tải đến Dân Chúa lời hứa hẹn sẽ có ngày Chúa mở huyệt và đưa mọi người đã chết ra khỏi đó (x. Ed 11,19). Sẽ có ngày Chúa sẽ ban cho dân một quả tim mới, bỏ đi quả tim chai đá, thay vào đó là quả tim bằng thịt biết yêu thương. Ông cũng được gọi là vị Ngôn sứ của Thần Khí Thiên Chúa. Ông loan báo sẽ có ngày Thần Khí Chúa can thiệp làm cho dân được sức sống mới, như những bộ xương khô dường như không còn chút hy vọng sẽ tái sinh và trở thành những con người cường tráng (x. Ed 37,1-14). Những hình ảnh này đã nâng đỡ và khích lệ dân tộc đang lưu đày xa quê và đang chịu ngàn nỗi thống khổ.
Để thực hiện chương trình cứu nhân độ thế, Thiên Chúa đã sai con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian. Người là vị Ngôn sứ vĩ đại nhất trong lịch sử. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai có sứ mạng cứu nhân độ thế. Lời nói và việc làm của Người đã chứng tỏ quyền năng thiên linh, đồng thời nhằm đem cho con người sự giải thoát. Khi nghe lời Chúa giảng dạy, những người nghe đã thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7, 16). Lời Người giảng dạy vừa có uy quyền vừa có sức thu hút lạ kỳ. Hễ người đi đến đâu, dân chúng đi theo rất đông để đón nhận Lời Hằng Sống. Trước uy quyền của Người, những kẻ thù ghét Người cũng phải chùn bước.
Nếu có nhiều người đón nhận giáo huấn của vị ngôn sứ thành Nagiarét, thì cũng có những người khước từ và mưu mô chống đối. Đó là trường hợp những người đồng hương của Chúa Giêsu. Thánh Máccô trong Tin Mừng hôm nay kể lại một chuyến về thăm quê của Người. Người thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, khi vào Hội đường để đọc và chú giải Sách Thánh. Đây là một sinh hoạt hàng tuần của các cộng đoàn Do Thái. Rất nhiều người ngạc nhiên vì lời giảng dạy của Chúa sâu sắc và khôn ngoan. Tuy vậy, cũng có những người dè bỉu chế nhạo. Khi không bắt bẻ được Người trong lời giảng dạy, họ bàn tán chê bai về gia đình và thân thế của Người. Họ lôi nghề nghiệp thợ mộc của cha Người để soi mói và nhằm giảm uy thế của Người. Họ chỉ đánh giá Người theo cái nhìn ghen tỵ và thành kiến. “Ngôn sứ không được tôn trọng tại chính quê hương mình…” Chúa Giêsu đã nhắc lại một câu ngạn ngữ thường được sử dụng trong giới bình dân, để chỉ sự cứng lòng của họ.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được trao ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Ngôn có nghĩa là lời; Sứ có nghĩa là được sai đi. Ngôn sứ tức là người được sai đi để nói Lời của Chúa. Nhiệm vụ này, không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì “Trung ngôn nghịch nhĩ – Lời nói thẳng thì khó nghe”. Để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, có những lúc người tín hữu giống như người bơi ngược dòng. Trong khi nhiều người dễ dàng chấp nhận sự dối trá, thỏa hiệp để được lợi lộc danh vọng, thì người Kitô hữu phải cân nhắc kỹ càng để không phạm Luật Chúa và không làm trái với lương tâm. Lịch sử ghi lại rất nhiều tín hữu đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu để làm chứng cho sự thật. Các thánh tử đạo là những ví dụ điển hình và là gương mẫu cho chúng ta về lòng trung thành với Chúa, noi gương Chúa Giêsu.
Trong bối cảnh xã hội còn nhiều bóng tối do bạo lực, ghen ghét, hận thù và tranh chấp, mỗi người tín hữu phải là một ngôn sứ của hy vọng. Niềm hy vọng đối với người Kitô hữu không chỉ là một thái độ sống, nhưng còn là một nhân đức đối thần, đó là đức cậy trông. Khi chúng ta đặt niềm hy vọng nơi Chúa, thì niềm hy vọng ấy là sự trông cậy. Trông cậy vào Chúa tức là chúng ta tin Ngài có thể làm được mọi sự, vì Ngài vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là Đấng thành tín yêu thương. Các ngôn sứ và các thánh vịnh khẳng định với chúng ta : ai tin vào Thiên Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng. Ngài là Cha nhân hậu, luôn muốn những điều tốt đẹp cho con cái mình. Đôi lúc chúng ta không nhận ra những điều tốt đẹp ấy, như người con còn nhỏ không hiểu thiện ý của cha mẹ, mà lại cho đó là những kìm hãm ràng buộc, nên khó chịu và buồn lòng. Kitô hữu là người cậy trông ở Chúa. Kitô hữu cũng là người gieo niềm hy vọng đối với những người đang sống xung quanh. Lối sống thân thiện, lạc quan và hài hoà chính là những hạt giống làm nảy sinh hoa trái của niềm hy vọng đối với những người chung sống. Người Do Thái lưu đày ở Babylon đã nhờ các ngôn sứ, trong đó nổi bật là ngôn sứ Edêkien, mà họ bớt tiêu cực chán nản và họ vững tin vào Chúa. Ước chi nhờ đời sống lạc quan của người Kitô hữu, mà những ai đau khổ chán chường được tiếp sức để biét trân trọng và yêu mến cuộc sống này hơn.
Sống và thực thi ơn gọi ngôn sứ đòi hỏi sự kiên trì. Mặc dù bị chống đối, Chúa Giêsu không nản chí và thối lui. Người tiếp tục lên đường đến các làng mạc khác mà giảng dạy. Thánh Phaolô noi gương Thày mình, ông đã trải qua nhiều khó khăn thử thách trong khi thi hành nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Ông không buồn, trái lại, ông rất lạc quan: «Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô». Phaolô bền tâm vững chí trong sứ mạng, vì ông tin tưởng vào lời Chúa: ơn Ta đủ cho con. Quả vậy, Chúa luôn ban ơn trợ giúp đúng lúc và đủ cho những ai cậy trông vào Ngài.
«Thần khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó». Lời Kinh Thánh quen thuộc nhắc chúng ta danh dự và bổn phận của người Kitô hữu. Bất luận già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, ai trong chúng ta cũng được Chúa sai đi để làm chứng cho Ngài. Không ai viện cớ mình không có khả năng để từ chối bổn phận này, vì lời chứng cho Tin Mừng rất đơn giản: một lời nói, một nụ cười, và cụ thể hơn cả là lối sống tốt lành của mỗi chúng ta.
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho chúng con, đễ dầu gặp khó khăn thử thách, chúng con vẫn nhất quyết đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.