Chuyện Đức cha Lambert (Phần 3)

Chuyện Đức cha Lambert (Phần 3)

III 

Ở KINH ĐÔ JUTHIA

  1. Vua nước Xiêm.

Vua nước Xiêm chỉ có đức tính hơn người là rất hoà nhã. Khi nhà vua nghe người ta khen ngợi các vị thừa sai, liền tò mò muốn gặp gỡ, chuyện trò với các ngài. Vừa gặp các ngài, vua đã thấy có thiện cảm ngay. Trước tiên vua đặt vài câu hỏi về đất nước các ngài và về dự định đã đưa dẫn họ đến vùng đất Ấn Độ. Vua có vẻ hài lòng với các câu trả lời của Đức cha Béryte. Nhưng vì vua tin là người Xiêm đang theo một tôn giáo hoàn hảo nhất, vua đàm thoại với các ngài, bằng cách hỏi các ngài có xác tín rằng đạo Công giáo giảng dạy điều gì tốt đẹp hơn tôn giáo mà vua đang theo không. Đức cha Béryte dùng câu hỏi đó như cơ hội để cắt nghĩa cho vua về các mầu nhiệm chính của đạo, như một Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự từ hư không, về các thiên thần sa ngã, là những kẻ thù không đội trời chung với loài người, vì con người ngày nào đó sẽ chiếm Thiên đàng thế chỗ chúng, về sự sa ngã của người đầu tiên vì không vâng lệnh Đấng Tạo hoá, đã di hoạ cho con cháu, về lời hứa sẽ ban cho loài người một Đấng Chuộc tội. Đấng ấy đã nhập thể trong lòng một Trinh nữ, đã sống cuộc đời vô tội, chết trên Thánh Giá, sống lại vinh quang, lên trời khải hoàn, không những làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa, chuộc tội tổ tông đã phạm, mà còn ban cho tổ tông và hậu duệ các phương tiện cần thiết để đạt được vinh quang vĩnh cửu mà con người đã đánh mất vì tội lỗi mình. Từ đó, Đức cha Béryte chuyển qua các phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện trong những năm sống ở trần gian, quyền năng Người ban cho các Tông đồ và môn đệ khiến họ thực hiện những phép lạ lớn lao hơn nữa (sở dĩ ngài dám nói như thế là vì những phép lạ Chúa Giêsu làm là do quyền năng của tự Người, còn những phép lạ xảy ra sau khi Người rời trần gian là nhờ danh Người và công nghiệp của Người). Quyền năng đó vẫn đang được bảo tồn trong Giáo Hội do Người thiết lập ra trong thế giới hữu hình này.

  1. Nhà vua xin chữa lành bệnh cho em trai mình.

Vua nước Xiêm hết sức kinh ngạc vì những lời cuối này, hỏi cắt ngang Đức cha Béryte :

« Để chứng minh điều ngài vừa trần thuật, ngài có thể gia ân cho ta một niềm vui, cụ thể là cầu nguyện với Thiên Chúa mà ngài tôn thờ, xin Người chữa lành bệnh cho một người em trai mà ta rất yêu quý. Hoàng đệ đó từ 5 năm nay đã bại liệt nửa người không cử động được gì nữa. »

Đức cha Béryte dũng cảm trả lời :

« Tâu bệ hạ, chúng tôi sẽ cầu nguyện, nhưng với điều kiện là nếu Thiên Chúa chấp nhận hiệu quả lời chúng tôi cầu, bệ hạ và hoàng đệ sẽ theo đạo Công giáo. »

Nhà vua và hoàng đệ đồng ý.

  1. Thiên Chúa nhận lời cầu xin.

Đức cha Béryte về lại tư gia, quy tụ giáo dân lại. Ngài tuyên bố tầm quan trọng của cuộc cam kết vừa qua, khuyến khích họ hiệp lời cầu nguyện, ăn chay, canh thức với ngài và các cha Deydier, Bourges. Cũng với ý chỉ đó, ngài cho chầu Thánh Thể trong nhà nguyện suốt ba ngày, ba đêm. Nhà nguyện lúc nào cũng đầy người. Vị Giám mục và 2 cha chỉ rời bàn thờ để dùng một chút bánh mì với nước lã.

Vào cuối đêm thứ ba, vua nước Xiêm vội vã phái mấy viên cận thần đến báo cho Đức cha Béryte và 2 cha là khi vua đang ở trong phòng hoàng đệ với các trọng thần, thì bỗng dưng hoàng đệ cảm thấy mạch máu thông chuyển làm hồi sinh các chi thể bất động, khiến ông cử động được tay chân, miệng lưỡi hết vướng víu và nói được tương đối như ý.

Được tin báo vui mừng như thế, Đức cha Béryte đóng cửa nhà chầu, giải tán giáo dân và cùng 2 cha bước vào phòng khách, nói với các viên quan được vua phái đến, đại để như sau :

« Tôi và các linh mục, giáo dân đã làm xong phần việc của mình, những gì chúng tôi đã cam kết. Bây giờ không phải chúng tôi mà là thánh thượng và hoàng đệ thi hành nốt phép lạ. Các vị ấy đã cam kết nếu thấy có chuyện lạ thường xảy ra, các vị sẽ theo đạo Công giáo. Bây giờ chúng tôi mong các vị giữ lời hứa, và tôi xin đáp lại với quý quan là nếu thánh thượng và hoàng đệ đón nhận Bí tích Rửa tội, hoàng đệ sẽ khoẻ hơn cả lúc trước khi ngài chưa gặp tai biến nữa kìa. Đấy là tất cả những gì tôi nhờ các quan thưa trình lại với thánh thượng và hoàng đệ. »

  1. Nhà vua lo sợ.

Nhưng than ơi, nếu thế thì còn gì là chính trị ! Nhà vua nước Xiêm vừa nghe xong những lời trình báo như trên thì cảm thấy vô cùng khổ tâm. Bởi vì một đàng vua thấy cần phải thực hiện điều mình đã cam kết như người ta yêu cầu, đàng khác vua nhận thấy nếu theo đạo Công Giáo, các sư sãi sẽ thiêu cháy toàn bộ đất nước, và đủ cớ để xúi giục toàn dân nổi loạn. Ý nghĩ bi quan đó đã làm vua mất ơn cứu rỗi đời đời, bởi vì vua thích người em được lành bệnh một nửa thôi hơn là bình phục hoàn toàn mà mất đi vương quốc trần gian của vua. Tuy vậy, cho đến cuối đời, trong mọi lần gặp gỡ, vua vẫn giữ mối thiện cảm cao nhất đối với Đức cha Béryte và các cộng sự của ngài, đã ưu ái các ngài lẫn những người phục vụ các ngài.

  1. Hai Giám mục hội ngộ.

[Vào tháng 1 năm 1664, Đức cha Héliopolis đến Juthia, cùng với ông Chamesson và 4 linh mục là Laneau, Brindeau, Hainques và Chevreuil].

Thật dễ dàng hình dung ra niềm vui của các vị Giám mục và các nhà thừa sai khi được tụ họp với nhau trong cùng một thành phố cách xa quê hương đến hơn 7.000 dặm, sau khi chịu đựng bao cuồng phong và trắc trở như vừa kể trên. Mọi vinh dự đều quy về Thiên Chúa qua các buổi tạ ơn tập thể và cá nhân.

  1. Triều yết vua nước Xiêm.

[Những kẻ thù ghét các thừa sai Pháp] không còn dám ngóc đầu kể từ khi nhà vua đặt các ngài dưới quyền bảo trợ cao nhất của vua. Đó cũng là điều vua xác quyết với các vị Giám mục 2 ngày sau khi Đức cha Héliopolis đến Juthia. Các ngài đến cung điện bày tỏ lòng kính trọng nhà vua. Vua tiếp đón các ngài cách tử tế đến mức một nhà vua công giáo và đạo đức cũng không thể làm hơn thế được. Vua chiêu đãi tất cả phái đoàn một buổi tiệc tương xứng với lòng hào hiệp của vua. Trong buổi tiệc đó có cả các đại thần của triều đình. Người ta mời rượu nhưng các ngài xin phép không dùng đến vì biết rằng người Xiêm cấm dùng rượu và họ ghê tởm những người ngoại quốc uống rượu. Khi người ta báo cho vua biết việc này, vua mỉm cười nói :

« Ta đã nghi là các vị ấy rất tử tế, muốn tránh gây cả mối phiền muộn nhỏ nhặt nhất cho chúng ta mà. »

  1. Ý kiến của Đức cha Lambert.

Vị vua hào hiệp muốn ban cho các ngài cuộc triều kiến thứ 2 trước khi chia tay. Khi các ngài đến, việc đầu tiên vua nói là tìm hiểu lý do nào khiến các ngài không uống rượu trong bữa ăn, bởi vì người Hà Lan, người Bồ Đào Nha và những người ngoại quốc khác mà vua đã từng mời tiệc đều uống cách dễ dàng khi được hầu rượu. Đức cha Béryte lên tiếng :

« Tâu bệ hạ, cầu Chúa giữ gìn chúng tôi dầu trong cung điện bệ hạ, dầu bất kỳ ở đâu, đừng khốn nạn gây ra gương xấu cho những người mà vì họ, chúng tôi đã từ bỏ mọi sự. Chúng tôi đến đây là để làm gương sáng cho họ và vì ơn cứu rỗi đời đời của họ, chúng tôi loan báo không nên bỏ ăn thịt và uống rượu. Phần chúng tôi, chúng tôi tự quyết định bao lâu còn sống ở đời này, chúng tôi sẽ không dùng đến chúng. »

Vua hỏi lại :

« Ủa, như thế người ta sẽ ăn thịt uống rượu trong một cuộc sống khác nữa sao ? »

Đức cha Béryte mạnh dạn trả lời :

« Thưa bệ hạ, đúng thế ạ. Bảo chứng của tôi là lời của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng không thể sai lầm và không lừa dối ai. Người đã từng hứa với các Tông đồ là những người đã theo Người và sẽ theo Người trong tương lai, vượt qua những cám dỗ đời này, là Cha Người đã chuẩn bị cho Người một vương quốc không bao giờ kết thúc. Cũng thế Người đã chuẩn bị cho họ ngồi cùng bàn với Người để ăn thịt uống rượu thoả thích. Và để xua tan mọi nghi ngờ có thể nảy sinh khi nói về rượu thịt, Người đã nói thêm rằng việc này đã được giải thích rõ ràng vào đêm trước khi chịu khổ nạn. Trong đêm đó, Người đã nói cho các môn đệ là Người sẽ không ăn mừng lễ Vượt Qua này (là thịt chiên con nướng) và uống rượu nho này nữa cho đến khi vào nước Trời. Và thực tế không nên hiểu lời Người cách thô thiển là chỉ nhắm vào những bữa tiệc thiêng liêng với vị ngọt ngào và khoái cảm vượt mọi diễn tả nhân loại. »

  1. Quà biếu hào phóng của vua.

Khi chia tay với các ngài, nhà vua nói là từ nay về sau vua càng có cảm tình với các ngài nhiều hơn, và bởi vì các ngài sống xa quê nhà, xa người thân, điều đáng sợ nhất là các ngài không nhận được kịp thời những hỗ trợ cần thiết từ phía người thân. Vua ao ước rằng khi xảy ra trường hợp đó, và mỗi khi các ngài lâm cảnh cần thiết, các ngài hãy đến nói với vua hơn là với những người khác, và ngân quỹ cũng như cõi lòng của vua lúc nào cũng sẵn sàng mở rộng.

  1. Đặc quyền của người Pháp.

Ta cần nêu ra đây một khó khăn gây khổ tâm cho Đức cha Béryte. Phong tục bất di bất dịch dành cho mọi người nước ngoài khi đến yết kiến vua nước Xiêm hoặc vị tể tướng, là phải cởi bỏ giày dép để ngoài cửa phòng. Vị Giám mục ghê tởm nghi thức này, nhưng không thể nào giải quyết được. Ngài thấy thật xấu hổ cho người Pháp khi tuân phục tục lệ đó, và nếu ngài thực hành nó để làm gương, người ta sẽ có lý do để chê trách hạnh kiểm ngài. Ngài khéo léo báo với quan tể tướng để quan kể lại cho vua. Vua tỏ ý muốn gặp Đức cha Béryte. Vua đã được thông báo về tình thế nhạy cảm của người Pháp trong những vấn đề gợi đến tục nô lệ hoặc hạ nhục sĩ diện quốc gia, nên cho báo với Đức cha Béryte là vua miễn trừ luật đó không những cho bản thân Đức cha Béryte mà còn cho các thừa sai, các quý tộc và các sĩ quan của công ty hoàng gia Pháp, khi những người này đến sinh sống trong vương quốc Xiêm. Cho dầu các quốc gia ngoại bang khác phàn nàn đến thế nào đi nữa, người ta cũng không màng để tâm đến. Chỉ những người Pháp mới được hưởng đặc ân đó.

  1. Cuộc tĩnh tâm của các thừa sai.

Để giải lao sau một cuộc hành trình dài như thế, người ta chỉ cần 5 ngày. Sau khi kết thúc 5 ngày đó, hai vị Giám mục và tất cả các thừa sai bắt đầu cuộc tĩnh tâm 10 ngày. Có 2 lý do chính khiến các ngài tĩnh tâm : một là để khiêm cung tạ ơn Chúa vì đã cho các ngài quy tụ được với nhau cách may mắn như thế, hai là để khẩn xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng cho các ngài đừng lên những kế hoạch mà không phù hợp thực sự với Thánh ý Chúa và sự quan phòng đầy yêu thương của Người, trước khi tách rời nhau, để đi đến vùng đất truyền giáo đã dành cho mỗi người. Các Đức cha Héliopolis và Béryte thay phiên nhau giảng huấn nhằm khuyến khích các thừa sai nhiệt tình hơn mãi trong tình yêu Chúa đối với những công việc phục vụ tha nhân mà các ngài chọn lựa.

  1. Sách « Huấn thị cho các nhà truyền giáo »

Kết thúc kỳ tĩnh tâm, các ngài bàn bạc những vấn đề chính cần giữ trong nếp sống để thống nhất khi thi hành chức năng mình. Theo gương các thánh tông đồ, các ngài cho rằng mình phải đưa ra những quy luật được gọi là « Huấn thị cho người tông đồ » [Monita ad missionarios]. Chỉ cần đọc ra đã thấy có bàn tay Thiên Chúa trong đó. Vì thế ở Roma, người ta thấy « Huấn thị » hợp lý nên Thánh bộ Truyền giáo xuất quỹ cho in nó mà không thêm bớt chữ nào, lại còn chuẩn nhận cách quý trọng. Trong « Huấn thị », người ta thấy toàn bộ những gì liên quan đến chức năng các nhà thừa sai, nội dung giáo lý cần giảng dạy, hạnh kiểm cần giữ, đối với giáo dân cũng như đối với người ngoại, người đời cũng như người nghèo, người giàu. Điều nào cần tránh, điều nào cần làm, tắt một lời, đó là bản mục lục đặt trước mắt người thợ truyền giáo để khỏi sợ đi sai các bổn phận phần việc mình. Nhưng điều tuyệt vời nhất là chính những con người chưa từng có chút kinh nghiệm nào về sứ vụ họ, lại có thể tiên liệu được hết mọi rắc rối sẽ gặp, đồng thời lại gợi ý các phương cách phòng chống. Điều này khiến các nhà truyền giáo sau này hết sức thán phục và mặc dầu các nhà soạn thảo « Huấn thị » đã qua đời nhiều năm, những người đi truyền giáo theo bước chân họ vẫn tìm gặp trong sách thần diệu đó cách giải quyết những khó khăn mới khiến họ lúng túng, mà không ai, dầu cẩn thận đến đâu, có thể tiên liệu trước được.

  1. Lời khấn của các nhà truyền giáo.

Sau khi biên soạn xong « Huấn thị », người ta đề nghị một việc khác cao cấp hơn nữa. Các Giám mục cho rằng thừa tác vụ các ngài sắp thực hiện đứng vị trí hàng đầu trong các thừa tác vụ của Giáo Hội, từ đó các ngài kết luận là cuộc sống bình thường của các giáo sĩ tốt lành nhất, thậm chí của các tu sĩ sốt sắng nhất cũng chưa đủ với các ngài. Các ngài phải đưa tầm nhìn xa hơn, và lập một chương trình sống tương đương với các đại thánh. Các ngài xem thánh Phaolô Tông đồ là gương mẫu các nhà truyền giáo. Thánh nhân đã rao giảng Phúc âm cho người khác, nhưng lại sợ mất ơn cứu rỗi của chính bản thân, nên đã bắt thân xác làm nô dịch. Vì lý do đó, các nhà truyền giáo tự nguyện khấn luôn hãm mình và đền tội trong quãng đời còn lại, nếu được Toà Thánh chuẩn y. Lời khấn đó bao gồm cấm ăn thịt và uống rượu, ăn chay hàng ngày, trừ Chúa Nhật và mùa Phục Sinh, mang trong mình những dụng cụ phạt xác, tự phạt roi vào mỗi sáng tối, ngủ trên tấm chiếu cói đơn giản, nguyện ngắm mỗi ngày 3 giờ, nửa đêm thức dậy nếu không quá mệt mỏi, cùng một số điều khoản khác chỉ liên quan đến cá nhân của mỗi người.

  1. Hành trình đến đất Đàng Ngoài .

Sau khi Đức cha Héliopolis lên đường [trở về châu Âu], Đức cha Béryte chỉ nghĩ cách gửi những người thợ tuyệt vời sang các miền đất Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ngài dành cho mình nhiệm vụ khó khăn nhất là thâm nhập vào Trung Quốc. Ngài đã thử ra đi, nhưng Thiên Chúa không cho phép ngài thành công. Chiếc tàu ngài đi bắt buộc phải trở lại Xiêm.

Cha Deydier đã vào được xứ Đàng Ngoài, thông báo cho Đức cha Béryte là mình đã chuẩn bị được nhiều thầy giảng ưu tú và đạo đức làm ứng viên chức linh mục. Theo quyền hạn rõ ràng được Toà Thánh ban, cha đã quy tụ khá nhiều thanh niên được chọn lựa kỹ để làm giáo sĩ. Nhận được tin vui đó, Đức cha Béryte đến ngay Giáo Hội Đàng Ngoài. Các thầy giảng được thụ phong linh mục sau khi đã nhận các chức nhỏ chuẩn bị cho tước vị cao quý đó. Nhiều thanh niên được nhận vào hàng giáo sĩ. Ngài tổ chức công đồng đầu tiên ở đất Đàng Ngoài, và thiết lập hội dòng các nữ tu Mến Thánh Giá, điều này càng đáng phục hơn ở điểm cho đến lúc đó, tại xứ này chưa có thiếu nữ nào từng khấn giữ đức trong sạch. Sau khi đã trao ban hoàn toàn những gì có thể sinh ích lợi nhất cho Giáo Hội Đàng Ngoài, ngài trở về Xiêm.

Vừa đặt chân lên đất Xiêm, ngài nhận được tin buồn về cuộc ra đi đột ngột của các cha Hainques và Brindeau. Hai thầy giảng mà trước đây đã được phong chức linh mục tại Xiêm, kể từng chi tiết cho ngài. Giáo Hội Đàng Trong buồn sầu đã cử các vị đó sang Xiêm đại diện cho họ để thúc bách vị Giám mục gửi người đến cứu giúp họ. Tình phụ tử khiến ngài xúc động và cảm thấy như có điều gì đó người ta có thể trách cứ ngài. Ngài muốn đích thân đến với Giáo Hội Đàng Trong.

 

Thông báo
Chat Facebook (8h-24h)
Chat Zalo (8h-24h)
0338698531 (8h-24h)