Chuyện Đức cha Lambert (Phần 6)

Chuyện Đức cha Lambert (Phần 6)

V

 CHUYẾN ĐI THỨ HAI SANG ĐÀNG TRONG

(Tiếp)

71. Khó khăn với các tu sĩ.

Chúng tôi mời các tu sĩ đang trú tại nhà một người lai Bồ Đào Nha đến họp với chúng tôi, để bàn cách kết thúc trong ôn hoà những khác biệt giữa họ với chúng tôi, nhưng chỉ vô ích. Vì việc này, tôi đã phải đi qua đi lại nhiều lần. Đức cha Béryte thấy họ ngoan cố như thế, cuối cùng quyết định yêu cầu họ phải vâng lời trong tình bạn hoặc hiểu ra rằng những khung hình phạt đang chờ họ trong các sắc chỉ của những Đức Giáo hoàng Alexandre VII, Clément IX và Clément X. Tôi làm lục sự tông toà khi cắt nghĩa cho họ những sắc chỉ đó. Tôi đã nói với cha Candone, người Sicile, mà tôi có cảm tình. Với tư cách cá nhân, tôi đưa cha xem sắc chỉ bắt đầu bằng câu « Speculatores Domus Israël ». Tôi đã đem theo 2 nhân chứng, thế mà trước mặt họ, cha Candone và bạn cha là cha Acosta đã trả lời với tôi: « Cha bảo đây là sắc chỉ của Đức Giáo hoàng, tin lời cha, chúng tôi hôn kính và kính trọng đặt trên đầu chúng tôi. »

Các cha ấy thực hiện điều họ nói. Nhưng rồi họ nói thêm họ nghĩ đây là sắc chỉ nguỵ tạo, họ sẽ giày đạp nó, và quả thực họ ném sắc chỉ xuống đất chà đạp nó.

Trước mặt họ tôi yêu cầu lập biên bản ghi lại lời nói và hành động của họ, nhưng họ phớt lờ. Họ còn mời tôi ăn chiều, nhưng tôi tức giận vì thái độ xấc xược của họ nên ra về mà không cần thu hồi lại sắc chỉ.

Đức cha Béryte đã lường trước được sự việc. Ngài khá tự chủ để không đưa các biện pháp chế tài đã được quy định trong sắc chỉ, nhưng tôi cố thuyết phục ngài làm, vì thấy trước điều tệ hại sẽ xảy ra.

Sự ôn hoà của Đức cha Béryte không làm họ dịu lại, cũng không khiến họ hồi tâm, mà hình như càng làm họ tăng thêm lòng bất tuân. Họ báo cho những người trong phe họ là Đức Giám mục không dám đưa ra các biện pháp và hình phạt ghi trong cái được Giám mục gọi là sắc chỉ của Đức Giáo hoàng Clément IX đó, là vì nếu nó là sắc chỉ đích thực, hẳn các Bề trên của họ đã biết và thông báo cho họ hay rồi. Vả lại, nếu nó là thực như Giám mục công bố, thì nó cũng thiếu thủ tục chủ yếu là không được Chưởng ấn Bồ Đào Nha hoặc Tổng Giám mục thành Goa, giáo trưởng vùng Ấn Độ, công nhận và chuẩn y, cho nên nó cũng trở nên vô hiệu.

Cuối cùng, Đức cha Béryte nhận ra rằng để không phản lại thừa tác vụ của mình, ngài không thể hoãn việc ngăn cấm họ, trừ khi họ làm đơn xin phép ngài thực hiện chức năng thừa sai. Người ta nhờ 4 thầy giảng tới cho họ biết phán quyết của Đức cha, các thầy này đã từng bị đám người hầu của ông Jean de la Croix ngược đãi trước mặt 2 cha, thế mà 2 cha [chẳng nói gì] vẫn cứ tiếp tục cử hành các bí tích.

Nhưng chuyện này đã bắt họ trả giá đắt ở đời này và có lẽ cả ở đời sau. Bởi vì Đức Giáo hoàng Innocent XI khi hay biết công chuyện, đã triệu hồi 2 tu sĩ đó về châu Âu với án dứt phép thông công chỉ Đức Giáo hoàng mới có quyền xá giải. Đồng thời Đức Giáo hoàng nhắn nhủ là kể từ ngày người ta giao cho họ lá thư của cha Tổng quyền Bề trên của họ, trong đó đề cập đầy đủ các ý định của Đức Giáo hoàng, họ phải rời bỏ mọi nhiệm vụ. Roma đã trao lá thư của cha Tổng quyền cho tôi với tư cách là lục sự tông toà. Khoảng 2 năm sau đó, tôi giao tận tay cho cha đó và cha đó ký biên bản đã nhận thư. Thoạt tiên lá thư tạo nhiều ấn tượng trên cha ấy khi cha rời xứ Đàng Trong đi Macao. Sau đó cha trở lại miền đất truyền giáo này với tư cách bề trên, mặc dầu cho đến nay cha vẫn chưa được giải án phạt. Còn với cha Acosta, thì không còn đến cơ hội thứ hai, vì cha thẳng thắn nói không biết gì đến lệnh của Đức Giáo hoàng, của Bề trên, và tiếp tục thừa tác vụ của mình cứ như là người ngây thơ vô tội nhất. Nhưng thật bất hạnh cho cha là cha đã chết trong tình trạng đó.

Còn vị tu sĩ thứ ba, người Pháp quê ở Grenoble, có tên là cha Baudet. Cha này biết lo cho linh hồn mình hơn, vì cha tuyên bố vâng phục ngoài miệng và thầm kín thôi, chẳng dám viết thành văn, « propter metum Iudaeorum » [sic] [« sợ kẻ đồng môn »], và người ta tạm chấp nhận cha ấy như thế.

  1. Chữa lành một hài nhi.

Trong thời gian chúng tôi ở kinh đô, xảy ra 2 chuyện kỳ diệu, đều do Đức cha Béryte ra tay. Những việc đó rất đáng được ghi lại trong hồi ký này, và chúng cho thấy rõ ràng đức tin của vị Giám mục cũng như quyền thế của ngài bên cạnh Thiên Chúa. Tôi kể lại đây cách mạnh dạn và xác tín, vì những việc này đã xảy ra trước mắt tôi, và trước sự chứng kiến tận mắt của nhiều người trong đó phần lớn hiện đang còn sống.

Ngày kia chúng tôi đang tụ họp với vài thầy giảng và một số nhân vật vị vọng trong giáo đoàn ở kinh đô, người ta đưa đến Đức cha Béryte một đôi vợ chồng trẻ vừa cưới nhau được 2 năm. Cả hai người mắt mũi đẫm lệ. Người vợ bồng một đứa bé khoảng 8, 9 tháng tuổi. Vì họ cứ nức nở không thể nói được, Đức cha nói với tôi: « Cha hãy đi gặp riêng họ xem họ muốn tôi giúp gì. »

Tôi cùng họ bước vào nhà nguyện. Họ nói đứa trẻ kia là con của họ. Nó ngã bệnh từ 10 ngày nay rồi. Các thầy thuốc không muốn đụng đến nó nữa, vì các ông ấy chắc chắn là cùng lắm nó chỉ sống được 2 ngày nữa thôi. Thế mà nay đã là ngày thứ ba, nó không ăn uống gì nữa. Thấy tình hình bi đát như vậy, bỗng dưng họ nảy ra ý nghĩ đem nó đến Đức Giám mục để xin ngài chúc lành. Được vậy, họ sẽ lấy làm an ủi và chấp nhận thánh ý Thiên Chúa xếp đặt. Tôi lay động đứa bé nhưng nó có vẻ như đã chết vì tim đã ngừng đập, mạch đã hết nhảy, khuôn mặt nhợt nhạt, nói được là tôi không còn tìm thấy chút sinh khí nào nơi cậu bé. Tôi hỏi đôi vợ chồng: « Các con tính sao ? Đứa bé này đã chết, không nên làm phiền thêm Đức cha, vì ngài đang rất bận công chuyện. »

Hai người đáng thương ấy quỳ xuống dưới chân tôi, khẩn khoản nài xin tôi cho phép họ hưởng niềm an ủi đó. Tâm hồn đau đớn của họ đã làm mềm trái tim tôi, tôi bảo họ: « Các con chờ ở đây, trong chốc lát cha sẽ trở lại. »

Tôi quay lại tường trình mọi việc không dấu diếm chút nào. Đức cha hỏi tôi: « Thế cha có tin là đứa bé đã chết rồi không ? »

Tôi trả lời là không phải chỉ mình tôi tin như thế, mà tất cả những ai có mặt khi tôi xem xét đứa bé đều cùng có ý nghĩ như tôi. Dựa trên cảm nghĩ đó, tôi muốn bảo họ ra về để họ khỏi quấy rầy thêm nữa, nhưng họ không muốn ra đi trước khi Đức cha ban phép lành đặc biệt cho đứa bé. Lập tức Đức cha Béryte đứng lên. Cả nhóm người đang họp cùng theo ngài vào nhà nguyện. Ngài vừa đi vào đó vừa nói với tôi bằng một giọng mà bình thường tôi không bao giờ nghe ngài nói như thế: « Cha hãy ẵm lấy đứa bé và trao cho tôi ! »

Tôi ẵm đứa trẻ từ tay mẹ nó và trao cho ngài. Ngài đặt nó nằm trên bàn thờ, còn ngài thì quỳ gối, đầu cúi xuống chạm vào cơ thể đứa bé. Tôi đứng gần ngài suốt 15 phút, chỉ nghe ngài thở dài đôi ba bận, và thấy lệ ứa ra từ đôi mắt ngài. Ngài chỉ nói mấy lời này: « Lạy Thiên Chúa con, con xin tạ ơn Người. »

Đồng thời ngài ẵm lại đứa bé trao cho tôi và nói: « Cha hãy trả đứa trẻ này lại cho mẹ nó. »

Tôi ngạc nhiên vì đứa trẻ dương đôi mắt lấp lánh bé xíu nhìn tôi, miệng mỉm cười, và sắc hồng trở lại trên khuôn mặt, một sắc màu khác với màu da bình thường của dân xứ này. Tôi chưa kịp trao đứa trẻ lại cho mẹ nó thì nó đã nhào vào lòng mẹ để đòi bú như mọi hôm.

Đức cha trở về ngay lập tức với các cộng sự viên và bảo tôi cho đôi vợ chồng đó ra về, cấm họ phao tin vừa qua ra ngoài. Nhưng người chủ nhà không đồng ý và muốn cho họ ăn uống. Chúng tôi muốn giấu tin này cũng không được, bởi vì ai nấy đều nôn nóng mời đến nhà họ khi thì người cha, khi thì người mẹ và đứa bé. Gia đình họ lưu lại kinh thành 3 tuần mới có thể trở về quê nhà được.

Năm năm sau sự kiện đó, lúc này Đức cha Béryte đã qua đời, tôi dẫn Đức cha Métellopolis [Laneau] sang xứ Đàng Trong. Tôi đã tường thuật từng chi tiết của câu chuyện cho Đức cha. Khi ngài đến kinh thành, tôi cho vời người cha và người mẹ mang đứa con hoàn toàn khoẻ mạnh đến gặp chúng tôi. Đức cha đã ban phép Thêm sức cho cậu bé, và tôi là người đỡ đầu. Chúng tôi đổi tên cho nó là Phêrô để nhắc nhở nó nhớ đến Đức cha Béryte như người cha thứ hai đã tái sinh nó.

  1. Đôi vợ chồng Phaolô và Maria.

Biến cố thứ hai tôi sắp kể đây cũng đặc sắc như biến cố trước. Địa điểm xảy ra cũng cùng một nơi, sau biến cố thứ nhất khoảng 15 ngày. Câu chuyện là như thế này :

Một đôi vợ chồng trẻ có đạo, cưới nhau đã 6 năm mà vẫn chưa có con. Nhà họ tiếp giáp với nhà Đức cha Béryte đang trú ngụ, bởi vì chỉ có một hành lang nhỏ bằng ván ngăn cách 2 ngôi nhà. Anh chồng vóc người vạm vỡ, mạnh khoẻ, là thợ kim hoàn của hoàng thân. Người vợ trái lại rất mảnh mai. Cha mẹ của Phaolô, tên người chồng, là người ngoại và khá giàu có. Khi thấy con trai mình không có con cái, họ đã không ngừng thúc ép anh ta cưới vợ bé, hoặc ít nữa là lấy người hầu thiếp để có con nối dõi tông đường. Bằng không, người ta đe doạ sẽ từ anh ta và trao hết sản nghiệp thừa kế cho người em chưa lập gia đình. Phaolô yêu quý vợ mình và tha thiết với đạo, nên liên tục lưỡng lự thấy khó xử vì người cha thô bạo cứ muốn con cái vâng lời theo ý ông, bằng không sẽ cắt luôn gia sản kế thừa. Anh ta đã từng chứng kiến việc đứa trẻ hồi phục trong nhà nguyện. Vì thế, lòng tràn ngập tin tưởng đối với công nghiệp và lời cầu xin của vị Giám mục thánh thiện đã từng làm hồi phục sức khoẻ cho đứa bé, anh ta đề nghị với vợ cùng đến quỳ dưới chân ngài, xin ngài cầu nguyện với Chúa để Chúa thoả nguyện ước của họ. Đó là phương cách duy nhất để giảng hoà được với cha của anh ta.

Đôi vợ chồng trẻ đã đến tâm sự với tôi về ý định họ. Tôi khích lệ họ và hứa sẽ giới thiệu họ với Đức cha ngay trong ngày. Hôm đó là thứ bảy, Phaolô cùng vợ đến vái chào Đức cha như mọi người. Họ không kể lể gì mà chỉ cậy nhờ tôi cắt nghĩa vấn đề và những lý do khiến họ đến. Tôi đã thực hiện theo những gì họ đã trình bày cho tôi biết. Đức cha Béryte trả lời với họ là ngài nghĩ yêu cầu của họ rất chính đáng, ngài sẽ cố gắng hết sức cho họ. Nhưng về phần họ, họ phải chuẩn bị bằng cách xưng tội, rước lễ và lãnh bí tích Thêm sức mà ngài sắp ban vào sáng mai, tức là ngày Chúa nhật.

  1. Quỷ ám.

Tôi rất quý mến đôi vợ chồng này bởi vì tôi đã từng linh hướng cho họ. Tôi dành hẳn cho họ một giờ để rảnh rang dạy dỗ họ. Họ vui vẻ trở về nhà. Nhưng khi đi được nửa hành lang, Phaolô là người đi trước bỗng giật mình vì người vợ chồm vào túm lấy anh ta, nhấc bỗng anh lên trời như nhấc một cọng rơm và cứ thế mang anh ta về phòng rồi nói anh không được đi xưng tội với các giáo sĩ của Đức cha, mà phải đi đến trú sở của phe ông Jean de la Croix, xưng tội với cha Candone.

Phaolô chưa kịp hoàn hồn, lại càng ngạc nhiên vì lời vợ vừa nói. Anh biết điều vợ anh ghét nhất trên đời là giao du với con người tu sĩ đã từng giày đạp lên sắc chỉ của Đức Giáo hoàng. Anh cố gắng nhẹ nhàng khuyên giải cho cô ta khỏi sai lạc như thế. Cô vợ lại tỏ ra dịu dàng và đáng thương như trước. Cuối cùng, sau khi đã hồi phục lương tri và không còn nhớ chuyện gì vừa xảy ra, họ đi xưng tội cách bình thường mà không khám phá được chuyện gì đã xảy đến. Họ đã lãnh nhận Mình Thánh Chúa và bí tích Thêm sức từ tay Đức cha Béryte.

Phaolô mừng rỡ vui sướng, cho rằng biến cố vừa qua chỉ do cơn sốt cao. Trước khi vào dinh hoàng thân ngày 2 lần theo lệ thường, anh dặn vợ nhớ mua vài con cá ngon để anh mời mấy người bạn đến ăn trưa. Cô vợ Maria đi chợ mua đủ các món ăn ngon và đem về nhà. Nhưng khi chị đánh vảy con cá đầu tiên bên cạnh cái giếng nằm giữa sân, bỗng nhiên chị cứng đờ người, trong tư thế đang ngồi, một tay đang giữ chặt con cá, tay kia đang cầm dao. Chị cứ bất động như thế cho đến gần trưa, khi người chồng trở về cùng 4 người bạn. Bọn họ đang chờ một bữa đánh chén ngon lành. Phaolô thấy vợ đang ngồi yên như thế, thì không thể không thốt ra đôi lời bực mình trách móc. Thế là chị vợ như thoát cơn hôn mê, nhìn chồng với nét mặt hung dữ và đôi mắt thất thần. Chị đứng dậy túm lấy người chồng nâng lên cao như cầm hình nộm và đưa vào phòng ném anh ta xuống đất. Bốn người bạn của Phaolô cố sức giữ chị vợ lại, nhưng chính họ cũng bị chị ta chụp lấy từng người một và ném họ nằm sát cạnh người chồng. Điều lạ lùng là những người đàn ông này không thể khua được chân tay mà chỉ mở miệng rên rỉ và kêu cứu.

Lúc đó chúng tôi đang ăn trưa. Đức cha Béryte hỏi chủ nhà tiếng động ngài nghe là từ đâu đến vậy. Ông ta trả lời: « Dạ từ nhà anh Phaolô. »

Đức cha thở dài và nói: « Chà, hai người sáng nay mới nhận bí tích thế mà sao lại chóng u mê tồi tệ đến thế vậy ? »

Ông Tôma, chủ nhà, thưa lại với ngài rằng họ đã là láng giềng với nhau từ 6 năm nay nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện ồn ào như hôm nay. Đức cha Béryte quay sang bảo tôi: « Cha cho người đi xem thử có chuyện gì vậy. »

  1. Giải thoát.

Tôi bảo ông Bartôlômêô đi sang phòng anh Phaolô xem sao. Ông này là người lớn tuổi nhất đang dạy dỗ cho các học sinh của tôi, một con người tôi hoàn toàn tin tưởng, vì tôi đã đặt ông ta làm viên quản lý. Bước vào phòng, ông thấy cảnh tượng đáng buồn là 5 người đàn ông nằm dài trên mặt đất, còn Maria ngồi vào chỗ mọi khi anh chồng vẫn ngồi, và nói với ông Bartôlômêô: « Tao thấy mày gan lì lắm mới dám mò đến đây, vì mầy không ngờ tao biết mọi trò ăn quịt của mày. Chắc mầy sẽ chối việc lén lút trao 1000 cắc cho cháu gái mầy mà không xin phép cũng không trình báo gì cho chủ, phải không ? Hoặc mầy chỉ trao có 5 xu cho một người đàn bà nghèo trong khi chủ mầy bảo đưa 10 xu cho bà ta ; hoặc vào một ngày khác, mầy đã lừa dối ông ta khi nói giá con cá chừng đó, thật ra không phải thế. Và mầy còn lừa gạt ông ta ở lần này, lần nọ để tự chữa lỗi. »

Nói vắn gọn lại, ma quỷ đã trách ông Bartôlômêô những việc mà sau đó ông ta xác tín và xác quyết rằng chỉ có Thiên Chúa mới biết rõ đến thế. Dựa trên lời ông ta, Đức cha Béryte bảo tôi đích thân sang đó. Tôi nói với Bartôlômêô: « Ông đi theo tôi. »

Ông ta từ chối và nói cho dầu tôi đe doạ đuổi ông, ông cũng sẽ không trở lại chỗ đó nữa.

Năm người đàn ông vẫn nằm bẹp dí khi tôi bước vào phòng. Tôi bảo họ ngồi dậy nhưng họ đồng thanh thưa: «Chúng con không ngồi dậy được. »

Tôi nắm cánh tay một người và bảo: « Nhân danh Chúa, anh hãy đứng dậy. »

Người này đứng dậy cách dễ dàng. Rồi những người khác cũng thế. Nhưng họ có vẻ hoảng hốt không thốt được lời nào. Sau đó tôi nói với người vợ: « Maria, con nói gì về việc này ? Tại sao con lại gây chuyện rắc rối lớn thế ? »

Ma quỷ dùng miệng chị ta nói: « Tao không sợ mầy đâu, cả mầy lẫn mọi thừa sai khác. »

Cần lưu ý là ở đất Việt, phải là người phụ nữ điên khùng lắm mới dám xưng mầy tao với chồng hoặc với người trên mình, lại càng cấm kỵ đối với linh mục. Thấy mình bị sỉ nhục, tôi bắt dầu sỉ nhục ma quỷ, ra lệnh cho nó phải kính trọng chức thánh của tôi. Nó vẫn cứ nhục mạ tôi, nói nó không sợ tôi chút nào, và nếu Đức cha Béryte không đích thân đến, nó sẽ không rời khỏi chị ta. Tôi muốn thử nghiệm xem có phải đích thực ma quỷ đang nói với tôi không. Sau khi đã hướng tâm hồn mình lên Thiên Chúa, tôi dùng tiếng la-tinh yêu cầu nó xưng danh. Nó trả lời tôi bằng tiếng Việt nó là thần Hà Bá [thần sông]. Tôi tiếp tục hỏi nó đã ám người phụ nữ Công giáo này từ bao giờ. Nó trả lời từ 6 năm nay, nó ngăn cản không cho cô ta có con để người chồng bỏ vợ, dưới sức ép ma quỷ đè nặng lên cha mẹ của người chồng. Vì các câu trả lời hoàn toàn phù hợp với các tra vấn của tôi, tôi không còn nghi ngờ gì nữa : đây đúng là quỷ ám. Tôi về trình lại với Đức cha Béryte. Ngài bảo tôi: « Tôi sẽ không vâng theo lời ma quỷ để thực hiện điều nó nói với cha. Thật không hợp lý khi ma quỷ đến trước cửa nhà chúng ta và lăng nhục chúng ta. »

Ngài gỡ cây Thánh Giá Giám mục đang đeo trước ngực mình, trao cho tôi và nói: « Cha trở lại đó và hãy bắt nó kính phục Thánh Giá. »

Tôi đón Thánh Giá và dấu dưới vạt áo chùng thâm. Tôi vừa bước đến cửa đã nghe quỷ nói với những người đàn ông: «Tụi bay mau trải chiếc chiếu nào đẹp nhất ra. Đức Giám mục sắp đến rồi kìa. »

Nhưng khi vừa nhận ra tôi bước vào phòng, nó kêu lên : « Không, không phải Giám mục mà chỉ là cây Thánh Giá của Giám mục. »

Tôi trả lời nó: « Phải đấy, kẻ khốn khổ kia ạ. »

Bấy giờ tôi rút cây Thánh Giá ra khỏi áo chùng, giơ ra trước mặt kẻ bị quỷ ám và nói: « Ngươi hãy thờ lạy Thánh Giá. »

Nó đáp: « Xin vâng. »

Người đàn bà quỳ xuống đón nhận Thánh Giá bằng cả 2 tay luồn dưới vạt áo dài. Cô ta hôn Thánh Giá, đặt lên đầu, trả lại cho tôi và nói: « Đây chưa phải là cách trục xuất ta. Đức Giám mục cần phải đến đây mới được. »

Tôi về thuật lại cho Đức cha Béryte. Ngài xúc động nói: « Cha hãy theo tôi. »

Tôi ngỡ là ngài đi đến căn phòng đó, nhưng ngài đi vào nhà nguyện và quỳ trước bàn thờ. Ngài cầu nguyện khoảng một khắc đồng hồ, bỗng chúng tôi nghe một tiếng nổ vang rền như tiếng sấm kèm theo mùi hôi khó chịu toả ra đến tận nhà nguyện. Năm người đàn ông cùng gào thét lên, làm Đức cha Béryte bảo tôi : « Cha hãy đi an ủi những người đó, và thay tôi nhắn nhủ là người phụ nữ họ tưởng đã chết thực ra còn sống. Quỷ đã xuất khỏi cô ta. Khi cô ta tỉnh dậy, hãy cho cô ta ăn uống. »

Mọi việc đã xảy ra đúng như ngài nói. Chỉ không đầy một giờ sau, Maria khoẻ mạnh trở lại, và 9 tháng 2 ngày sau cô ta sinh ra một đứa bé trai xinh xắn. Cha cậu bé hoãn ngày rửa tội cho đến khi tôi trở lại kinh thành. Tôi đặt tên thánh cháu là Phêrô, theo tên Đức cha Béryte.

Cậu bé chào đời không chỉ đem lại bình an cho gia đình cậu, mà còn nói được cậu ta là động cơ khiến ông bà nội, người chú và hơn 50 người nữa trong gia tộc, sui gia cũng như bạn bè của họ đều trở lại đạo Công giáo.

  1. Ngài phải trở về Xiêm.

Đức cha Béryte thấy mọi việc trở nên thuận lợi cho mình đến thế, nên đã quyết định sống cho đến hết đời ở đất Đàng Trong. Nhưng trong lúc không ngờ nhất, thì ngài lại nhận được một túi thư của Đức cha Métellopolis do chiếc thuyền vừa từ Xiêm đến. Qua đó ngài mới biết Đức cha Héliopolis trong chuyến đi đến Đàng Ngoài, đã bị trận bão mạnh thổi dạt vào dải đá ngầm dọc biển Đàng Trong, nhưng chiếc thuyền của ngài đã vượt qua được như một phép lạ. Đức cha đã phải cập bến Manila, thủ phủ các đảo Phi Luật Tân. Bấy giờ các đảo này thuộc quyền người Tây Ban Nha, một đất nước đang hoà hảo với nước Pháp. Tuy nhiên quan Toàn quyền ở đó đã ra lệnh bắt ngài như một tù binh, bất chấp quyền lợi người ta, và đã đưa ngài tới tu viện dòng Tên để quản chế không cho ai thăm viếng, vì ông cho ngài là một gián điệp, và là một người lạc giáo. Vị Tổng Giám mục cũng như viên Pháp quan toà án dị giáo ở Manila đã tìm cách gặp ngài nhưng không được. Thậm chí ngài bị cấm cả đến viết lách. Người ta đã tịch thu chiếc thuyền và bắt nhốt thuyền trưởng lẫn thuỷ thủ đoàn vào nơi biệt giam.

Các tin tức như thế đã phá hỏng mọi dự định của Đức cha Béryte, bởi vì từ các tin tức đó ngài kết luận ngài cần phải trở về Xiêm để tìm phương cách trợ giúp người bạn đồng hành đó.

Khi ngài truyền đạt quyết định đó cho tôi, và để khỏi mất thời gian, bởi vì chiếc thuyền từ Xiêm đến đã được lệnh phải sớm trở về cho kịp thời tiết, tôi đành phải thông báo cho phò mã và các quan đại thần để họ trình lại cho vua giúp chúng tôi. Tất cả các quan đều ngạc nhiên và phật ý, nhưng cuối cùng người ta cũng cấp giấy thông hành mà tôi đã yêu cầu.

  1. Đám đông ở Hội An.

Ở phần trên, người ta đã lưu ý là phò mã và quan đệ nhất đại thần từng khuyên Đức cha Béryte đừng cho phép giáo dân tụ tập đông người, nhất là ở kinh thành, để tránh tạo ra mối hiềm nghi nơi nhà vua. Vua sẽ không chấp nhận điều đó và sẽ phá hỏng công việc của chúng tôi. Trong thời gian ở kinh thành, chúng tôi dễ dàng chú ý cẩn thận không để ai có cớ trách cứ chúng tôi về việc đó. Bởi vì giáo dân tụ họp ở nhiều ngôi nhà, chúng tôi khi thì đi đến nhà này, khi thì đi đến nhà khác chỉ cách nhau chút xíu.

Nhưng khi chúng tôi trở lại Hội An, sự việc không còn được như thế, vì người ta đồn với nhau là Đức cha Béryte sắp trở về Xiêm, nên từng đám đông giáo dân kéo đến với chúng tôi làm chúng tôi hết chủ động nổi. Bất kể ngày đêm, nhà thờ và ngôi nhà trọ của chúng tôi đều không ngớt người. Tôi uổng công cắt nghĩa cho những người giáo dân xa lạ từ khắp nơi tuôn đến là họ đặt chúng tôi vào tình trạng nguy hiểm, làm hại chúng tôi trước quan quyền, nhưng nhiệt tình của họ khiến họ trở nên điếc trước mọi lời quở trách của chúng tôi. Họ chỉ muốn gặp Đức Giám mục của họ.

Kẻ thù của chúng tôi bấy lâu nay tìm không ra một cơ hội như thế này, bây giờ cho rằng đã đến lúc không được bỏ lỡ dịp may, bởi vì Đức cha Béryte sắp xuống thuyền.

  1. Tai hoạ ở Hội An.

Lúc đó vào 2 giờ sáng ngày lễ kính thánh Gioan, tức sau ngày lễ kính thánh Têphanô được 2 giờ, viên quan thương chính [người em tư sinh của quan đệ nhất đại thần, vì tư chất kém cỏi nên được giao cho chức thương chính Hội An để cách xa người anh ra] cùng với binh lính vượt sông và ghé vào nhà bang chủ [người đứng đầu] các thương gia Trung Hoa. Ông này vì công việc buôn bán, ngày nào cũng giao dịch với họ. Nhà ông ta là láng giềng với nhà chúng tôi, hai bên cách nhau bằng khoảng bề ngang một con đường nhỏ. Chúng tôi cư xử với nhau như những bạn bè tốt qua những gì tôi phục vụ ông ta. Vừa hay biết bọn lính đến đây với ý đồ hại người, ông ta cố hết sức mình để chuyển hướng hành động bọn chúng, nhưng khi thấy họ đã quyết định từ trước rồi, ông gửi đi một người thư ký viện cớ sang xem bên chúng tôi hiện đang làm gì, nhưng ông đã thầm căn dặn người ấy sang cảnh báo chúng tôi. Người giúp việc này chỉ biết người giúp việc của Đức cha Béryte tên là Hyacinthe nên ông ta gọi tên ông Hyacinthe 3 lần. Lúc này cha Mahot đang đứng ở bàn thờ cho giáo dân rước lễ, đó là lý do khiến không ai để ý đến việc có người gọi. Tôi thì nằm nghỉ một chút vì bao nhiêu mệt mỏi dồn lại từ những ngày trước. Tôi chỉ choàng tỉnh khi nghe tiếng kêu la người ta đang bắt bớ giáo dân. Tôi bật dậy ngay và mở cửa nhà thờ vì bọn lính đang cố đẩy cửa đó. Như những con sói, chúng nhào vào những người giáo dân mà chúng thấy đầu tiên. Có một tên nắm lấy bộ râu tôi, tay lăm lăm thanh gươm trần, nói là nó bắt tôi theo lệnh của vua. Nhìn sang bên cạnh, tôi thấy một tên lính khác đang nắm tóc lôi kéo một phụ nữ có nhà ở gần nhà chúng tôi. Tôi cố gắng giải cứu bà ta. Tên lính đang giữ tôi liền gọi đồng đội y đến để đàn áp tôi vì y cho rằng tôi kháng cự lại. Thế là cả đội quân túa lại quanh tôi. Tôi thoát được những trận đòn vì viên cai đội hay tin đã vội lại giải cứu tôi và quát mắng bọn thuộc hạ đã ngược đãi tôi, đồng thời ra lệnh cấm đụng đến các Cha. Cuộc giằng co này cũng có ích vì tạo cơ hội cho một số đông giáo dân chạy trốn được. Tuy nhiên cũng có ít nhất 40 người bị thương, kẻ thì khá nặng, người thì nhẹ hơn. Tôi để ý thấy bọn lính chỉ chú tâm rượt đuổi những ai đi ra khỏi nhà thờ, tôi trở vào và thu hồi hết các tràng chuỗi, hình ảnh, ảnh đeo mà giáo dân đang giữ, để tránh cớ cho người ta hành hạ họ vì những dấu hiệu tôn giáo đó. Bởi vì tôi vừa nghe người ta nói họ không muốn đụng chạm đến của cải lẫn con người chúng tôi, tôi xin Đức cha Béryte lưu lại trong nhà nguyện đừng đi ra ngoài cho đến khi tôi gặp lại ngài. Tôi đi thẳng đến viên quan chỉ huy tàn bạo và hỏi ông ta lấy quyền từ đâu để hành động như thế. Ông trả lời đó là việc của ông ta, và ông ta không có bổn phận phải trả lời tôi. Ông ra lệnh cho 2 viên cai dẫn tất cả những người bị bắt đem về sở Thương chính.

  1. Một bé gái Công giáo.

Hung hãn tàn ác đến thế nhưng viên quan không thể chịu được cảnh một bé gái khoảng 7, 8 tuổi đang ẵm đứa em trai chỉ mới 8 tháng. Người mẹ đang nằm dài trên mắt đất, bị thương ở đầu và gò má. Cô bé gái can đảm không thể tưởng tượng nổi, vừa đong đưa đứa em ngây thơ đang khóc, vừa dỗ em: « Em sướng nhé, nín đi em, vì mẹ chúng mình có đổ máu thì cũng vì Chúa Giêsu Kitô mà chịu khổ thôi. »

Thấy cảnh tượng này, sự tàn bạo đổi sang hiền hoà, viên quan nói với tôi ông ta tức giận vì binh lính thuộc cấp đã ngược đãi quá đáng, và mong tôi vui lòng nhanh chóng băng bó những vết thương cho họ. Ông ta sẽ kín đáo để họ lại. Nói xong những lời đó, ông chào tôi ra về. Tôi dự định đi theo ông ta và suýt làm như thế nếu như Đức cha Béryte không ngăn tôi lại bằng lời nhắc nhở là trong lúc giao thời này ngài không thể thiếu vắng tôi được.

  1. Cha Vachet được phái đến gặp quan Tổng trấn.

Đức cha Béryte xét thấy nên phái tôi đến gặp quan Tổng trấn và kể hết những gì tai nghe mắt thấy. Câu chuyện này làm ông ta ngạc nhiên đến mức không thể tin nổi. Ông nói: « Nếu đó là lệnh của vua, tôi phải đi đến triều đình để dâng đầu mình cho chúa thượng vì ngài đã ra lệnh như thế ở ngay cửa nhà tôi và trong phủ thuộc quyền tôi cai quản, mà không lý gì đến tôi. »

Quan Tổng trấn được những người của con trai mình cài làm ở sở Thương chính báo cáo lại cho biết. Bấy giờ quan thực sự nổi giận, phái viên cai cơ vệ binh cùng binh lính đến sở Thương chính để truyền đạt ý ông cho quan Thương chính là nếu không tức khắc tha ngay những người y vừa bắt giữ, quan sẽ vào triều để dâng sớ tố cáo với vua và quan đệ nhất đại thần, anh của y. Lời đe doạ đã tỏ ra có hiệu quả : ông ta cho thả tất cả các giáo dân.

  1. Ý kiến của Đức cha Béryte.

Đức cha Béryte vốn là một trong những người khôn ngoan trong thời đại ngài, đã suy nghĩ sâu sắc về tai hoạ này. Ngài cho rằng điều quan trọng cuối cùng là nếu được, nên dập tắt nó để đừng đến tai vua, cũng như đến tai quan đệ nhất đại thần. Tôi thưa với ngài là nếu quan Tổng trấn cùng thuận theo ý ngài thì sẽ được thôi. Tôi không mất hy vọng. Vì thế chiều hôm đó tôi trở lại dinh quan này và ông có nhã ý cho tôi vào mặc dầu đã đến giờ nghỉ ngơi. Sau khi cảm ơn ân đức của quan, tôi trình bày dự định của Đức cha Béryte và được ông tán thành. Nhưng ông khuyên tôi nên đến kinh thành để thông báo với viên thư lại của quan đệ nhất đại thần, người luôn xưng mình là bạn với chúng tôi bất kỳ ở đâu. Chúng tôi nghe theo lời khuyên đó.

Cao Kỳ Hương lược dịch

PJD giới thiệu

(Còn tiếp)

Thông báo
Chat Facebook (8h-24h)
Chat Zalo (8h-24h)
0338698531 (8h-24h)