Trong đời sống con người, không gì quan trọng hơn niềm hy vọng. Nhìn quanh mình, ta thấy biết bao người sống không có niềm hy vọng. Đồng thời cũng thấy biết bao bằng chứng về đời sống không có tình yêu. Nhưng thiết nghĩ chúng ta không thể sống mà không có niềm hy vọng.
Hy vọng là niềm khát khao cháy bỏng, không thể diễn tả bằng lời, nhưng lại đang tồn tại trong chính tâm hồn mỗi người chúng ta. Nhưng nó cần được đánh thức và khuấy động. Không có niềm hy vọng ta không thể tiến bước, hay mở sang một trang mới ở cuốn sách cuộc đời. Nói cách khác, ta có thể sẽ mất phương hướng trong đời. Đặc biệt là trong thời đại mà niềm hy vọng xem ra khó có thể đạt được, thì ta lại càng được mời gọi khơi dậy niềm hy vọng tận thâm sâu không chỉ nơi bản thân mình, nhưng cả nơi những người khác nữa.
Người môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô sống trong niềm hy vọng. Ta hy vọng vào lời Ngài, vào lời hứa ban sự sống và sự hiện diện của Ngài. Ta đặc cược cả đời mình trong niềm hy vọng rằng sức mạnh tình yêu sẽ chiến thắng mọi tội lỗi. Người môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô sống niềm hy vọng này trong mỗi phút giây của cuộc đời.
Trong truyền thống Ki-tô giáo, niềm hy vọng được diễn tả qua nghệ thuật, âm nhạc, văn chương và cả thơ ca nữa. Niềm hy vọng được diễn tả một cách tuyệt vời trong một bài thơ dài của Charles Péguy, có tựa đề tiếng Anh là “Door to the Mystery of Hope”. Trong bài thơ đó tác giả so sánh đức tin, đức cậy và đức mến như ba chị em gái, mà đức cậy được gọi là “niềm hy vọng bé bỏng”. Cô là người chị thứ hai trong ba chị em, giữa chị đức tin và em đức mến. Câu chuyện nói về ba chị em cùng tiến bước trên đường. Khi đức tin ta bị mệt mỏi hay kiệt sức, hoặc đức mến bị nguội lạnh hay trống vắng, thì niềm hy vọng ở tận đáy lòng lại bắt đầu lớn lên trong ta. Vực dậy tinh thần giúp ta tiếp tục tiến bước trên hành trình theo Chúa.
Vậy niềm hy vọng đích thực là gì?
Niềm hy vọng là những gì ta có được đặc biệt là khi ta chẳng có gì cả. Niềm hy vọng hướng ta về tương lai. Niềm hy vọng đi tìm và khám phá ra con đường vượt trên mọi hữu hạn nơi trần thế. Niềm hy vọng luôn nhìn xa hơn giây phút hiện tại. Niềm hy vọng giúp ta tiến bước. Niềm hy vọng là niềm xác tín rằng mình sẽ có cách vượt qua mọi gian khó. Niềm hy vọng là thâm tín rằng mọi sự chắc chắn sẽ tiến triển tốt đẹp.
Niềm hy vọng đúng nghĩa thì khác với niềm vui khi mọi sự diễn ra một cách tốt đẹp, hay là việc sẵn sàng làm điều gì đó vì chắc chắn nó sẽ thành công. Trái lại, niềm hy vọng là khả năng để làm một việc gì đó chỉ vì nó tốt lành hay đúng đắn, chứ không phải vì nó cho ta cơ hội để thành công. Càng hy vọng trong những lúc khó khăn, thì niềm hy vọng càng sâu sắc. Niềm hy vọng cũng khác với sự lạc quan. Nó không chỉ là xác tín rằng một điều gì đó sẽ diễn ra một cách tốt đẹp, mà là xác tín rằng, dù bất cứ điều gì xảy đến thì điều đó vẫn diễn ra một cách tốt đẹp.
Trong thế giới hôm nay, nhiều người vẫn đang bước đi trong cảnh tăm tối của nỗi buồn và sợ hãi. Họ chưa tìm được một con đường để dẫn đến ánh sáng của niềm vui và hy vọng. Ngay cả khi không biết ngày mai sẽ ra sao, thì tự trong tâm khảm, chúng ta vẫn luôn mong muốn và mong đợi những điều tốt lành. Chính sự không thể đoán trước của tương lai đôi khi làm nảy sinh những cảm xúc đối lập. Từ tin tưởng đến nghi ngờ, từ thanh thản đến bất an, từ kiên trì đến nản chí, đến nỗi chúng ta thường gặp những người nhìn về tương lai với sự hoài nghi và bi quan, như thể không có gì có thể mang lại cho họ hạnh phúc. Do đó, trong tuần cuối của Mùa Vọng này chính là cơ hội để mỗi người chúng ta sống lại niềm hy vọng vốn có. Tâm tình ấy trở nên đặc biệt hơn khi thời gian này trùng lặp với khoảng thời gian cả Giáo hội đang hồi hộp chuẩn bị cho Năm Thánh sẽ diễn ra vào đêm Giáng sinh, với nghi thức mở Cửa Thánh. Thời gian còn lại của mùa Vọng được đếm ngược từng ngày. Vì thế, ta càng được thôi thúc sống tâm tình của người “lữ hành hy vọng” – cũng là chủ đề của Năm Thánh. Tuy nhiên, hy vọng không phải là suy nghĩ giữ trong tâm trí nhưng phải được duy trì bằng những hành động cụ thể. Người Kitô hữu bước đi dưới ánh sáng, đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đấng đã ban cho cho họ cơ hội được “hành hương” về miền đất hứa là quê trời. Bởi vậy, những việc họ làm phải thể hiện rõ niềm tin, hy vọng mà họ đang sống. Chu toàn công việc của mình với một tình yêu vô tận, dù đó có là công việc tầm thường, nhỏ bé nhất. Yêu thương vô vị lợi dù gây nhiều bất lợi cho mình. Dần bớt thời gian cho mình để dành cho Chúa, cho tha nhân… Vô vàn những hành động cụ thể, tuỳ theo quyết tâm và lòng đạo đức của mỗi người. Vì Chúa là niềm hy vọng của chúng ta nên nếu ta hy vọng luôn luôn, Ngài sẽ chẳng bao giờ lìa xa ta. Vì Ngài không phải niềm hy vọng cuối cùng, nhưng là nguồn hy vọng duy nhất của ta. Đó là niềm hy vọng không bao giờ thất vọng…
Hoa Bốn Lá