
Khi nhắc tới thánh Phao-lô, chúng ta dễ dàng nghĩ về Ngài với những danh xưng tiêu biểu như: Vị thánh của dân ngoại; Đứa trẻ sinh non của Thiên Chúa,…Hay như mục sư Đaniel Magueral[1] đã nhận định: “Thánh Phao-lô là thần học gia của tương lai chứ không phải thần học gia của quá khứ”. Nhận định ấy mở ra cái nhìn mới mẻ về thánh nhân và thúc đẩy chúng ta không ngừng khám phá những tư tưởng thần học mà thánh Phao-lô để lại qua các thư của Ngài. Riêng với tôi, tư tưởng mình được ‘thuộc về’, dành riêng cho Thiên Chúa của thánh nhân trong thư gửi tín hữu Ga-lát chương 1,15-16a đã để lại trong tôi nhiều suy tư.
“15Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. 16Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của người cho các dân ngoại”. (Gl 1,15-16). Đây chắc hẳn là một cảm nghiệm sâu sắc của thánh nhân khi được Thiên Chúa chạm tới và biến đổi. Công vụ tông đồ chương 9 đã thuật lại cách cụ thể biến cố ngài được kêu gọi làm tông đồ trên đường đi Đa-mát. 3Vậy đang khi ông đi đường và đến gần Đa-mát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. 4Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Sa-un, Sa-un , tại sao ngươi bắt bớ Ta ?” 5Ông nói : “Thưa Ngài, Ngài là ai ?” Người đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. 6Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì.”(Cv 9, 3-6). Có thể nói, biến cố trên đường Đa-mát là khúc quanh lớn nhất trong cuộc đời thánh nhân để rồi từng bước đi trên hành trình truyền giáo, ngài luôn lắng nghe âm vang tiếng Thầy Giê-su, tiếng nói thức tỉnh và trao ban sức sống mới cho ngài. Nhờ đó, thánh nhân luôn xác tín cách mãnh liệt tình yêu Thiên Chúa đã, đang và mãi luôn bao bọc ngài.“Tôi có là gì cũng nhờ ơn Thiên Chúa.”(1Cr 10,15)
Tuy sách công vụ tông đồ được viết lại dưới ngòi bút của thánh sử Lu-ca nhưng trình thuật trên đường Đa-mát trong đó cũng đã cho chúng ta thấy rõ ơn gọi của thánh Phao-lô. Nhờ đó, khi tìm hiểu cách chi tiết và cụ thể về thư gửi Ga-lát 1,15-16a sẽ cho chúng ta hiểu hơn về cảm nghiệm đích thực ơn gọi của thánh nhân. Bởi đó là những dòng suy tư, tâm tình do chính thánh nhân viết lại. Thánh nhân đã cảm nghiệm thế nào về ơn gọi đích thực của mình? Những cảm nghiệm sâu sắc ấy đã thúc đẩy thánh nhân trên đường truyền giáo thế nào? Sau cùng, những cảm nghiệm của ngài về ơn gọi cao quý tiếp tục nhắn gửi tôi điều gì?
BỐI CẢNH
Thư Ga-lát có luận điểm giống thư Rô-ma về ơn công chính hóa nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, thời gian biên soạn của hai thư có thể gần nhau. Thư Rô-ma được viết ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 thì thư Ga-lát được biên soạn khoảng năm 54 – 57. Thời gian này, thánh nhân đang ở Ê-phê-xô hoặc ở Ma-kê-đô-ni-a[2].
Thư Ga-lát là một bức thư đặc biệt với nhiều nét khác biệt với các thư khác. Trước tiên, thư không gửi cho một Hội Thánh tại một thành phố nhất định mà gửi cho các Hội Thánh miền Ga-lát (Gl 1, 2)[3]. Trên thực tế, miền Ga-lát chia thành hai miền thượng và hạ. Trước thế kỷ XIX, nhiều người chủ trương thư Ga-lát được gửi cho cộng đoàn miền Tiểu Á do thánh Phao-lô thành lập trong chuyến truyền giáo thứ hai (Cv 16, 6). Đó là miền Ga-lát thượng. Nhưng cuối thế kỷ XIX, nhờ khảo cổ học, nhân văn, nhiều người chủ chương thư Ga-lát được viết cho những người tín hữu trong chuyến truyền giáo thứ nhất (Cv 13,13-14,27). Đó là miền Ga-lát hạ. Bên cạnh đó, có quan điểm chủ trương thư Ga-lát viết cho cả hai miền thượng và hạ. Nét khác biệt thứ hai, bức thư mang nặng màu sắc tranh luận.[4] Bức thư cho thấy Phao-lô chống lại các tín hữu Do-thái, đến từ Giê-ru-sa-lem. Họ muốn hạ uy tín của Phao-lô và làm lung lạc đức tin còn non yếu của tín hữu gốc dân ngoại. Biết chuyện, Phao-lô nổi giận. Thánh nhân viết lá thư để nhắc nhở, biện minh cho sứ vụ tông đồ, quả quyết bản chất ơn công chính hóa.
ƠN GỌI CỦA THÁNH PHAO-LÔ
Như đã nói ở trên, thư Ga-lát được thánh Phao-lô viết ra khi phải đối diện với những người chống đối, muốn hạ uy tín của mình. Họ không công nhận người là tông đồ vì thánh nhân không được Chúa Giê-su chọn trong số mười hai tông đồ. Hơn nữa, họ còn chê bai người là kẻ cơ hội. Thánh nhân đã viết lá thư khi tâm trạng nóng giận. Lời lẽ sắc bén, mạnh mẽ. Lá thư không mở đầu với lời tạ ơn, nhưng là lời cầu xin bình an (Gl 1,3-5). Phần thân bắt đầu với lời cảnh cáo (Gl 1,6-10). Đây thực sự là một lá thư mang đậm nét bút chiến.
Mở đầu cho những lập luận trong lá thư, thánh nhân viết về chính ơn gọi của mình. Thánh Phao-lô đã sử dụng ngôn ngữ như một lời tuyên bố chống lại những kẻ trước đây không chấp nhận ngài là tông đồ của Đức Giê-su Ki-tô. Những ngôn từ thân thuộc với nhiều người Do-thái:“Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi trong ân sủng của Ngài” (Gl 1,15). Ngôn ngữ mang đặc tính truyền thống các ngôn sứ. Khi sử dụng những ngôn từ ấy, thánh nhân khẳng định ơn gọi của Ngài đến từ Thiên Chúa. Ơn gọi mang tính ngôn sứ. Thật thế, Ga-lát 1,15 có những nét tương đồng với Giê-rê-mi-a 1,5 và I-sai-a 49,1. Có lẽ, Phao-lô đã nại đến những gương mặt Thánh Kinh giàu ý nghĩa như: Người tôi tớ đau khổ được I-sai-a gợi lên, hay những cảm nghiệm nội tâm[5] trong ơn gọi của Giê-rê-mi-a.[6] Ơn gọi ngôn sứ là ơn gọi đến từ sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa, qua lời kêu gọi, dẫn đưa ngôn sứ vào một liên hệ mật thiết riêng tư với Ngài.[7] Thiên Chúa chọn gọi những người Ngài muốn. Thiên Chúa tiền định ơn gọi tông đồ khi ngài ‘dành riêng’, tách biệt để chỉ thi hành điều Chúa muốn. Như thế, khi quả quyết ơn gọi đến từ Thiên Chúa, Phao-lô đồng thời đón nhận một sứ mạng. Sứ mạng là ngôn sứ, nói lời Thiên Chúa. Ơn gọi thánh Phao-lô còn đến từ ân sủng của Thiên Chúa. Thánh nhân ý thức ơn gọi của Ngài không do công trạng nhưng hoàn toàn bởi tình yêu lớn lao Thiên Chúa dành cho Ngài[8]. Thật vậy, “ân sủng của Thiên Chúa đã trở thành một đề tài chính trong thần học Phao-lô. Ngài khám phá được Thiên Chúa yêu cách nhưng không, theo lòng thương xót. Thiên Chúa không yêu vì ta tốt, nhưng yêu để ta trở nên tốt.”[9] Chính trong ân sủng của Thiên Chúa, Phao-lô được biến đổi để trở nên tốt. Cũng nhờ ân sủng Phao-lô có thể lắng nghe lời mời gọi trở nên tông đồ của Đức Ki-tô.
Phao-lô so sánh ơn gọi của mình với những vị ngôn sứ vĩ đại trong lịch sử Ít-ra-el, không chỉ cho thấy tính thánh thiêng trong lời mời gọi Thiên Chúa dành cho mình. Phao-lô chứng tỏ sự trội vượt trong lời kêu gọi ấy. Sự trội vượt khi được đón nhận chính Đức Giê-su Ki-tô. Thật vậy, không vị ngôn sứ nào của Cựu Ước được Thiên Chúa tỏ bày Con của Ngài. Nhưng giờ đây, Người Con ấy đã được Thiên Chúa mặc khải cho Phao-lô. Thiên Chúa đoái thương, ưu ái ngài cách đặc biệt.[10] Khi mặc khải con của Ngài, Thiên Chúa tin tưởng trao phó cho thánh nhân một mặc khải thần linh. Đó là một mặc khải thần linh kép vì Đấng mặc khải là Thiên Chúa và nội dung được mặc khải là Con Thiên Chúa.[11] Điều ấy khẳng định tính chất ngôn sứ trong ơn gọi của Phao-lô. Nếu sứ mạng của các ngôn sứ là truyền đạt thông điệp của Thiên Chúa thì giờ đây, sứ mạng Phao-lô là truyền đạt về chính Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa:“để tôi loan báo về Con của Người cho dân ngoại”(Gl 1,16). Ở đây, Phao-lô tạo ấn tượng bằng việc Ngài khám phá Con Thiên Chúa tương ứng ngay lập tức với việc tham gia vào sứ vụ. Sứ vụ được gửi trao cho dân ngoại. Dân ngoại thời thánh Phao-lô là những người không theo truyền thống, lề luật của Do-thái giáo. Như vậy, sứ mạng Phao-lô là nói Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô cho những người không phải gốc Do-thái; trong đó có những người miền Ga-lát. Vì vậy, khi đang viết những lời này cho họ, Phao-lô cũng ý thức sứ mạng được Thiên Chúa trao phó. Những lời ấy không do ý muốn của riêng ngài nhưng hoàn toàn đến từ sáng kiến và chương trình của Thiên Chúa.
Như vậy, ơn gọi của Phao-lô không hệ tại bởi một biến cố duy nhất để có thể xác định thời gian. Đó không phải chỉ là một ơn gọi đến bất ngờ ngay khi ngã ngựa trên đường Đa-mát. Nhưng đích thực là một ơn gọi thánh thiêng. Ơn gọi bao gồm đồng thời một lời kêu gọi của Thiên Chúa ngay từ khi còn trong lòng mẹ, một sự dành riêng ngay từ lúc khởi đầu và một mặc khải có yếu tố sai đi[12].
LỜI MỜI GỌI THUỘC VỀ CHÚA
Thiên Chúa luôn đi bước trước và mời gọi những con người Ngài muốn. Vì vậy, ơn gọi trước tiên luôn đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, chính “Chúa đã nhìn đến con ngay khi con còn trong lòng mẹ”. Ý thức và đón nhận điều ấy cũng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy tôi – người sống đời thánh hiến tiến bước mỗi ngày trong niềm hăng say, nhiệt thành.
Trước tiên, tôi được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Thiên Chúa mời gọi tôi sống và cảm nhận tình yêu của Ngài. Như xưa, Chúa đã mời gọi các môn đệ “đến mà xem” (Ga 1,39) thì giờ đây, Ngài cũng mời gọi tôi đến ở lại và sống kinh nghiệm thân tình với Ngài. Bởi lẽ, khi ngụp lặn trong tình yêu và cảm nếm chính Chúa, tôi mới được đổ đầy để mạnh mẽ thi hành sứ vụ. Cảm nếm Thiên Chúa cũng là lúc tôi xác tín ơn gọi ‘dành riêng’ cho Ngài. Đó thật sự là một ơn gọi cao quý và đặc biệt. Ơn gọi được ghi khắc bằng những lời khấn dòng. Thật vây, khấn dòng là một cam kết vĩnh viễn của người tu sĩ với Thiên Chúa. Lời ấy thúc đẩy tôi không sống cho chính mình nhưng hoàn toàn ‘thuộc về’ Thiên Chúa. Đó là một sự thuộc về ngay từ thuở ban đầu. Thuộc về Thiên Chúa bởi được chính Ngài tuyển chọn và đón nhận. Sự tuyển chọn không phải bởi sức riêng của con người nhưng hoàn toàn bởi tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Hơn nữa, lời khấn dòng còn thúc đẩy tôi dám sống mầu nhiệm Nước Trời ngay giữa thế gian. Đó là cuộc sống luôn quy hướng về Thiên Chúa và bác ái với mọi người. Tình yêu cũng khích lệ tôi can đảm sống lời khấn dòng cách trung thành, vui tươi hầu đón nhận ơn lành Chúa ban.
Thứ đến, ý thức được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi, tôi mang trong mình hồn tông đồ. Đó là sứ mạng được đón nhận từ chính Chúa. Sứ mạng được đổ đầy bởi tình yêu của Thiên Chúa. Tôi sẽ ra đi không phải bởi sức riêng của chính mình nhưng hoàn toàn bởi sức mạnh của Thiên Chúa. Ý thức ấy cho tôi can đảm để tiến bước mỗi ngày. Dẫu có gặp những khó khăn, trở ngại tôi cũng xác tín có Thiên Chúa hiện diện và dẫn dắt. Theo gương thánh Phao-lô, chính Đức Ki-tô mãi luôn là sức mạnh và hồn sống cho người tông đồ: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên, tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui mừng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 9-10). Những cảm nhận ấy, cho tôi sức mạnh để vươn lên và vượt qua những hiểu nhầm, thách đố gặp phải trên hành trình rao truyền Tin Mừng. Những thử thách ấy là cơ hội để minh chứng tình yêu dành cho Đức Ki-tô.
Sau cùng, mang trong mình hồn tông đồ cho tôi thêm niềm tin và sự khiêm nhường để luôn tín thác trong tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Luôn ý thức sự hiện diện của Chúa cho tôi tiến bước với niềm hăng say và nhiệt thành. Hơn nữa, sống vâng phục trong ý chí và hành động giúp tôi kín múc nguồn bình an trong sự dẫn dắt của Chúa. Và trên tất cả, cảm nhận điều ấy để mỗi tu sĩ sống đời thánh hiến tiến bước trong tình yêu Thiên Chúa, mạnh mẽ ra đi rao truyền chân lý và đặc biệt luôn ý thức mình thuộc trọn về Chúa mỗi ngày.
Bs.KN
[1] Daniel Marguerat là nhà chú giải Thánh Kinh, chuyên viên về Tân Ước, thuộc Giáo hội Tin Lành Cải Cách.
[2] Nhóm các Giờ kinh phụng vụ, Kinh Thánh trọn bộ, dẫn nhập thư Ga-lat, 2011.
[3] Nhóm các Giờ kinh phụng vụ, Kinh Thánh trọn bộ, dẫn nhập thư Ga-lat, 2011.
[4] L.m Vũ Phan Long, Tìm hiểu các thư Phao-lô, NXB Đồng Nai, 2021, tr 35.
[5] x. GB Hoàng Văn Khanh, Theo dấu các ngôn sứ, tr 144.
[6] Lm. Phao-lô Trần Minh Thực, PSS, chuyển ngữ, Tông đồ Phao-lô chân dung tự họa, NXB Đồng Nai, 2019, tr 31.
[7] Lm. Bernard Phạm Hữu Quang, PSS, Giới thiệu ngôn sứ Thánh Kinh, NXB Đồng Nai, 2022, tr 114.
[8] x. Cardinal Albert Vanhoye and Peter S. Williamson, Galatians, tr 49.
“Paul indicates the completely gratuitous nature of God’s choosing him: it was through his grace. He is very aware that his vocation is not due to his merits. How could a persecutor deserve to be called an apostle? Paul recognizes he is the beneficiary of the very generous love of God”.
[9] Lm. Lê Phú Hải, Theo dấu chân Phao-lô, tr 60.
[10] x. Cardinal Albert Vanhoye and Peter S. Williamson, Galatians , tr 49.
“Although similar to the vocation of the greatest prophets, Paul’s vocation is greater since God did not reveal “his Son”. But Paul reports that God was pleased to reveal his Son to me. The word “pleased” emphasizes God’s affectionate favor toward Pual.”
[11] x. Cardinal Albert Vanhoye and Peter S. Williamson, Galatians, tr 49.
The revelation is doubly divine beacause its author is God and its content is the Son of the God.
[12] x. Lm. Phao-lô Trần Minh Thực, PSS, chuyển ngữ, Tông đồ Phao-lô chân dung tự họa, NXB Đồng Nai, 2019, tr 34.