
Trong thời đại hiện nay, Hội Thánh vẫn không ngừng thao thức để tìm ra những phương thế mới giúp thực thi sứ vụ Chúa trao cách hiệu quả hơn. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã khẳng định: “Sứ vụ là bản chất của Hội Thánh. Sứ vụ loan báo Tin Mừng không còn là đặc quyền của Giáo Hoàng hay hàng giáo phẩm, nhưng là một khuynh hướng thuộc bản chất của Hội Thánh ở mọi nơi”[1]. Là một nữ tu, tôi cũng mang những ưu tư cho sứ vụ của Hội Thánh nói chung cũng như sứ vụ Chúa trao phó cho riêng bản thân tôi. Tôi thấy rằng, để thực thi sứ vụ đó cách hiệu quả, điều quan trọng cốt yếu mà tu sĩ cần làm là sống chứng tá. Để trở nên chứng tá trong sứ vụ Chúa trao, tu sĩ cần thấm nhuần tinh thần Tin Mừng qua những lời dạy của Chúa Giê-su cũng như giáo huấn của Giáo Hội. Với mục đích hiểu rõ hơn về nhiệm vụ chứng tá, người viết xin điểm qua một số khía cạnh của đời sống thánh hiến. Qua đó, mỗi tu sĩ sẽ nhận ra việc làm cụ thể cần thực hiện trong hành trình xây đắp cho sứ vụ chung của Hội Thánh.
Khía cạnh đầu tiên, tôi xin đề cập đến là đời sống cầu nguyện. Tu sĩ phải trở nên chứng tá cho thế giới hôm nay về việc “gặp gỡ cá nhân với tình yêu cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô”[2]. Mỗi tu sĩ “phải luôn cố gắng để có được không gian nội tâm đem lại ý nghĩa Ki-tô giáo cho việc dấn thân và hoạt động. Nếu không có những thời gian kéo dài để thờ phượng, gặp gỡ trong cầu nguyện với Lời, đối thoại thành thật với Chúa, các trách nhiệm sẽ dễ dàng bị đẩy vào vô nghĩa, chúng ta sẽ yếu dần vì mệt mỏi và gặp những khó khăn và rồi lòng nhiệt thành sẽ tắt ngấm”[3]. Tu sĩ không thể nói về Chúa cho người khác trong khi không có một đời sống cá vị thâm sâu với Ngài. Chỉ khi mang một trái tim đầy Chúa, họ mới có thể sẵn sàng dấn thân để phục vụ trong yêu thương không quản gian khó. Chỉ có “Tình yêu Đức Ki-tô thúc bách”[4] mới là động lực thúc đẩy cho sứ vụ loan báo Tin Mừng nên hữu hiệu được. Đặc biệt, người nữ tu Mến Thánh Giá được mời gọi “vun trồng sự kết hợp mật thiết với Đức Ki-tô chịu đóng đinh… Chính sự kết hợp này là nguồn mạch làm phát sinh hoạt động tông đồ kiến hiệu, ngược lại hoạt động tông đồ đích thực luôn xác nhận và phát huy đời sống kết hợp với Chúa”[5]. Quả vậy, để sống chứng tá cho sứ vụ, cầu nguyện là một yếu tố quan trọng bậc nhất chi phối toàn bộ đời sống của mỗi tu sĩ.
Tiếp theo, khía cạnh thứ hai cũng đặc biệt cần thiết là đời sống cộng đoàn. Tu sĩ sẽ trở nên chứng tá đích thực khi họ đem chính những điều họ rao giảng thực hiện trong cuộc đời. Khi nói với mọi người về tình yêu thương, hiệp thông huynh đệ, tu sĩ cũng phải thể hiện điều đó trong tương quan với anh chị em mình. “Người ta sẽ chẳng bao giờ tin những gì người ta nghe (tuy có thể hấp dẫn và ấn tượng) nếu những gì họ nghe mâu thuẫn với những gì họ thấy và kinh nghiệm: phẩm cách của đời sống chúng ta”[6]. Sống trong đời dâng hiến, bản thân tôi cũng nhận ra những thực trạng đáng buồn vẫn tiếp tục tồn tại. Đó là sự bất hòa, chia rẽ, ghen ghét, đố kỵ trong cộng đoàn dòng tu. Những điều này có thể trở thành phản chứng cho thế giới hôm nay. Vậy, làm sao để cộng đoàn sống chứng nhân? “Đời sống huynh đệ, được hiểu như một cuộc sống san sẻ trong tình yêu, là một dấu chỉ rõ ràng của sự hiệp thông trong Hội Thánh[7]”.
Và để nối kết tình hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một món quà thật vô giá. Đó chính là nụ cười. Nụ cười thật dễ để trao ban và nó đem lại giá trị tinh thần thật lớn lao. Nụ cười xua đi những hiểu lầm, xóa tan sự khác biệt. Nụ cười đem lại cho chúng ta sự ấm áp của tình người. Đặc biệt, đời sống thánh hiến cần lắm nụ cười chia sẻ, nụ cười thấu hiểu, nụ cười bao dung để gia tăng tình hiệp thông huynh đệ. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã từng khẳng định: “Ở đâu có tu sĩ, ở đó có niềm vui”. Đời dâng hiến phải trở nên dấu chỉ niềm vui ơn cứu độ, một niềm vui đích thực với trái tim luôn ca hát ngợi khen tình yêu Thiên Chúa. Những nụ cười thánh thiện sẽ là bí quyết để mỗi ngày chúng ta sống hiệp thông cách trọn vẹn và ý nghĩa hơn. Đúng vậy, người tu sĩ luôn được mời gọi nên thánh mỗi ngày trong sứ mạng nhân chứng tình yêu với sự lạc quan, tươi vui. Trong số 122, Tông huấn “Hãy vui mừng hoan hỷ”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã cho chúng ta một cái nhìn mới về các thánh: “Các thánh không rụt rè, chua chát hay u uất, cũng không mang một vẻ mặt thê thảm, các ngài rất vui tươi và đầy khiếu hài hước lành mạnh”[8]. Đây là một gợi ý đầy thiết thực cho mỗi tu sĩ đang thao thức cho sứ vụ loan báo Tin Mừng, khởi đi từ con đường làm chứng tá giữa đời.
Quả thế, tình hiệp thông chính là linh hồn của một cộng đoàn sống đời thánh hiến. Ngoài ra, để các thành viên trong cộng đoàn thực sự nên nhân chứng tình yêu, họ cần học nơi Đức Giê-su mẫu gương phục vụ. Tin Mừng Gio-an đã khắc họa rõ nét và sâu sắc điều đó trong trình thuật “Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ”: “Nếu thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15). Đức Giê-su không chỉ dạy các môn đệ bằng lời nhưng bằng chính cuộc đời của Ngài. Hẳn các ông cũng cảm nghiệm được tình thương của Thầy dành cho mỗi người: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1b). Đức Giê-su không dùng quyền lực để lãnh đạo, Ngài dùng tình yêu để cảm hóa con tim, biến đổi cách suy nghĩ của các môn đệ. Tin Mừng Gio-an dùng động từ “yêu” (agapaô) để diễn tả hành động hiến trao chính mạng sống… đó là tình yêu mãnh liệt vét cạn để hiến trao, không giữ riêng cho mình điều gì. Cụ thể trên Thập giá, Đức Giê-su đã hiến trao tất cả, kể cả giọt máu và giọt nước cuối cùng để khơi nguồn sự sống”[9]. Các tu sĩ – những con người tự nguyện cam kết bước theo Đức Ki-tô cũng được mời gọi yêu như Ngài đã yêu và sống như Ngài đã sống. Chúng ta không thể thực thi sứ vụ bằng những giáo lý, giáo điều khô khan, cứng nhắc. Chính Đức Ki-tô cũng đã dành cả cuộc đời nhân thế để minh chứng cho những điều Ngài nói. Và các tu sĩ phải là những người môn đệ chân chính để theo gót Chúa Ki-tô trong cả tư tưởng, lời nói và hành động.
Không những thế, tu sĩ còn sống chứng tá trong chính nét đặc trưng của đời thánh hiến là ba lời khấn. “Sống đời thánh hiến là bước theo Đức Ki-tô, mẫu mực đức Khiết tịnh, Nghèo khó, Vâng phục, là cam kết dâng mình cho Đức Ki-tô, để thuộc trọn về Người và chu toàn các nhiệm vụ của Dòng”[10]. Qua ba lời khấn, các tu sĩ mong muốn nên giống Đức Ki-tô với niềm tin tưởng, phó thác vào tình yêu tuyệt đối của Ngài. Cho dẫu đây là một hành trình đầy thử thách gian nan, người tu sĩ được mời gọi kiên trì để giữ lòng trung tín đến cùng. Hơn nữa, đời thánh hiến trở thành một dấu chỉ diễn tả những khía cạnh phong phú của mầu nhiệm Nước Trời mai hậu. Bên cạnh đó, các tu sĩ cũng chứng tỏ cho thế giới biết về Thiên Chúa là Đấng đáng được yêu mến tôn thờ trên hết mọi sự.
Trên đây là một số suy tư cá nhân về cách thức để thực thi sứ vụ của Chúa cách hiệu quả. Dù mỗi người sẽ có một giải pháp, một hướng đi khác nhau nhưng theo tôi thì điều quan trọng hơn cả vẫn là một đời sống chứng tá. Đặc biệt trong ơn gọi dâng hiến, chứng tá càng cần thiết hơn cho Giáo Hội nói chung cũng như cho chính bản thân người tu sĩ nói riêng. Đời chứng tá sẽ góp phần thi vị và ý nghĩa cho người tu sĩ, giúp họ hướng đến nguồn hạnh phúc đích thực và viên mãn nơi Đức Giê-su Ki-tô. Hy vọng rằng, đây sẽ là hành trang vững chắc giúp tôi thăng tiến trong đời dâng hiến cũng như thực thi sứ vụ Chúa trao phó. Để từ đó, bằng chứng tá yêu thương, tôi hăng say dấn thân phục vụ. Và để tôi luôn biết quy hướng vào một mình Đức Ki-tô mẫu gương tuyệt vời của chứng tá Phúc Âm.
Maria Song Hiên
Học viện MTG Hà Nội
– – – – –
[1] Lm Phêrô Đinh Ngọc Lâm, DCCT, Sứ Vụ Học, TP HCM, 2017, tr.36
[2] ĐGH Phanxicô, Evangelii Gaudium, nxb Tôn giáo, 2014, tr.211
[3] ĐGH Phanxicô, Evangelii Gaudium, nxb Tôn giáo, 2014, tr.209
[4] x 2 Cr 5,13
[5] Hiến Chương Hội Dòng Mến Thánh giá Hà Nội, 2008, điều 75, tr.74
[6] Lm Phêrô Đinh Ngọc Lâm DCCT, Sứ Vụ Học, TP HCM, 2017, tr.39
[7] ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Huấn Đời Thánh Hiến, 1996, tr.83
[8] ĐTC Phanxicô, Tông Huấn Hãy vui mừng hoan hỷ, nxb Tôn giáo, số 122, tr.85
[9] Lm Vinh Sơn Mai Văn Kính, Ngôi Lời trở thành đấng bị đâm thâu, nxb Đồng Nai, 2019, tr.204
[10] Hiến Chương Hội Dòng Mến Thánh giá Hà Nội, 2008, điều 12, tr.14