Thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe có ai đó nói:
“Lấy người Công giáo làm chi
Chết thì ai cúng, giỗ thì ai lo
Lấy ai chăm sóc mả mồ
Lấy ai hương khói bàn thờ tổ tiên.”
Những tư tưởng sai lạc ấy vô tình đã làm mất đi nét đẹp của người Công Giáo. Bởi người Công giáo trong thuần phong mỹ tục, đạo hiếu của dân tộc Việt Nam vẫn giữ trọn những lễ nghĩa gia phong thờ kính ông bà tổ tiên cách bình thường. Thiên Chúa dạy rằng: đối với các bậc làm con, chữ hiếu đặt lên hàng đầu, chỉ sau điều răn thờ phượng và yêu mến Thiên Chúa. Người Công giáo cũng có ngày giỗ, xây cất phần mộ đẹp đẽ cho ông bà tổ tiên. Đặc biệt, trong tháng Mười Một, các vườn thánh được trang hoàng hết sức trang trọng. Các phần mộ được dọn dẹp sạch sẽ, thắp hương, đèn hoa nến lung linh. Ngoài ra, Giáo Hội còn dành riêng ngày mùng 2 Tết và những ngày lễ giỗ để kính nhớ, cầu nguyện cho ông bà tổ tiên và những người thân yêu đã qua đời sớm được hưởng hạnh phúc viên mãn Nước Trời. Đây là một nét đẹp truyền thống đối với người Công giáo.
Tháng Mười Một về, trời đất bắt đầu chuyển mình, gió se se lạnh, cây lá bắt đầu ngả màu. Một không gian lặng lẽ bao phủ lấy thời gian. Từ khi bước vào đời sống Tập viện, tôi dần quen với thinh lặng, cầu nguyện và lao động. Tháng các linh hồn đến, tôi cảm nhận rằng, mỗi giây phút của cuộc sống này đều quý giá. Mỗi sáng được thức dậy, được cầu nguyện và được sống trong tình yêu Chúa – tất cả là hồng ân. Và rồi, khi nghĩ đến những người đã khuất, tôi nghe như có lời nhắc nhẹ trong tim: “Con cũng sẽ trở về cùng Ta, nên hãy sống trọn từng ngày”.
Trầm tư theo dòng cảm xúc, những ký ức được cùng gia đình đi viếng mộ tổ tiên, những người thân yêu đã khuất ùa về rõ ràng trong tâm trí tôi. Tôi nghe mùi nén hương nghi ngút, những bước chân chậm rãi nơi vườn thánh quê nhà. Tôi nhớ những buổi chiều tháng Mười Một, khi mặt trời dần khuất sau rặng tre, mẹ chuẩn bị hoa cúc trắng, vàng còn bố cầm theo bó nhang còn mới và cả nhà cùng nhau đi viếng Vườn thánh. Đường làng khi ấy phủ đầy lá khô, hương lúa sau mùa gặt vẫn còn thoảng trong gió. Tôi cùng bố mẹ dọn dẹp những phần mộ của ông bà tổ tiên và thắp hương, hoa nến. Tôi vẫn nhớ cảm giác ấm áp khi đứng giữa không gian yên bình ấy- nơi mà dường như mọi âm thanh đều nhỏ lại để nhường chỗ cho những lời cầu nguyện và tiếng lòng tri ân.
Tháng các linh hồn năm nay, dù không thể về quê nhưng lòng tôi vẫn luôn hướng về quê nhà. Trong mỗi lời kinh, mỗi phút thinh lặng của Nhà tập, tôi gửi gắm nỗi nhớ và tình thương của mình đến ông bà tổ tiên và cả những người thân yêu đã ra đi. Tôi tin rằng, họ vẫn đang mỉm cười, vẫn hiện diện trong đời sống của tôi như những ngọn nến nhỏ âm thầm soi sáng con đường ơn gọi mà tôi đang đi. Tôi tin rằng, lời cầu nguyện không bị giới hạn bởi khoảng cách. Tình yêu sẽ vượt qua mọi biên giới thời gian. Có lẽ, điều quý giá nhất mà những ngày viếng vườn thánh quê nhà để lại cho tôi chính là sự biết ơn và bình an. Biết ơn vì tôi được sống, được yêu thương và được nối tiếp dòng chảy của những người đã đi trước. Bình an vì tôi biết, họ đang ở trong vòng tay Thiên Chúa, nơi không còn nước mắt, khổ đâu mà chỉ còn niềm hy vọng và niềm vui trọn vẹn.
Hôm nay, tôi cùng các chị em trong lớp theo bước các chị trong cộng đoàn đến Vườn thánh viếng phần mộ của các bà, các chị đã ra đi về với Chúa. Trước mắt tôi là những hàng phần mộ ngay ngắn. Có các bà, các chị tôi chưa từng gặp hay chỉ biết qua vài câu chuyện mà các chị lớn kể lại nhưng trong lòng tôi dâng lên một niềm kính trọng sâu xa. Họ đã đi trọn con đường ơn gọi mà tôi đang bắt đầu bước đi – âm thầm, trung tín và tràn đầy niềm tin. Tôi cúi đầu đặt bó hoa nhỏ trước một phần mộ. Tên gọi khắc trên bia đá giản dị, chỉ ghi vài dòng ngắn gọn: Năm sinh, năm mất và câu Lời Chúa quen thuộc: “Sự sống thay đổi, chứ không mất đi”. Các bà, các chị đã đi trước nhưng hành trình của họ vẫn tiếp tục trong chúng tôi- những tập sinh hôm nay, đang bước từng bước nhỏ với ước mong một ngày kia cũng được nghỉ yên trong vòng tay nhân từ của Chúa. Khi tiếng kinh cầu vang lên, cả khu vườn thánh như chan hòa trong một bầu không khí thiêng liêng và ấm áp. Trong phút lặng ấy, tôi cảm nhận rõ ràng rằng cái chết không hề xa lạ. Nó chỉ là một cánh cửa mở ra đời sống mới, nơi tình yêu được viên mãn trong lòng Thiên Chúa.
Là Tập sinh, tôi đang ở những bước đầu tiên của đời dâng hiến. Khi đứng trước các phần mộ, tôi thấy rõ hơn hình ảnh đích thực của ơn gọi: đơn sơ, âm thầm nhưng đầy sức mạnh. Các bà, các chị không còn ở đây nhưng di sản của họ vẫn sống mãi trong lời kinh, trong nụ cười an vui và trong cách cộng đoàn yêu thương và phục vụ. Họ là những “viên gạch nền” âm thầm nâng đỡ chúng tôi bước tiếp trên hành trình dâng hiến.
Khi ra về, tôi cố ngoái lại nhìn Vườn thánh lần nữa. Hoàng hôn phủ xuống nhẹ nhàng, những phần mộ trắng phản chiếu ánh vàng của nắng chiều như đang tỏa sáng. Tôi mỉm cười – nụ cười nhỏ bé của một người đang học cách sống, học cách yêu và học cách tin.
Tháng các linh hồn vì thế không chỉ là tháng của nhớ thương mà còn là tháng của hy vọng. Bởi nơi tận cùng của cái chết là khởi đầu của sự sống đời đời, hạnh phúc viên mãn bên Đấng Tình Yêu.
Kết thúc một ngày trong tình yêu ân sủng, tôi thầm tạ ơn và khẽ đọc lại lời kinh:
“Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và xin cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy”.
Lời kinh đó cũng là ước nguyện của tôi – một Tập sinh nhỏ đang học cách chết đi mỗi ngày để được sống trọn vẹn hơn cho Đấng đã chết vì TÌNH YÊU.
Thiện Mỹ
